Thông tin

Số điện thoại

Email

Website

Địa chỉ

Fyodor Kuzmich Sologub Фёдор Кузьмич Сологуб

Fyodor Kuzmich Sologub (Фёдор Кузьмич Сологуб, 1863–1927) tên thật là Fyodor Kuzmich Teternikov, nhà văn Nga. Sinh ngày 17 tháng 2 (1 tháng 3) năm 1863 tại Saint Petersburg. Cha nhà văn là con ngoài giá thú của địa chủ vùng Poltava, một nhà quý tộc sau khi chế độ chủ nô bị bãi bỏ trở thành thợ may ở thủ đô. Cha ông mất vào năm 1867, mẹ ông buộc phải vào làm con hầu trong một gia đình trung lưu. Gia đình này có truyền thống yêu thích nhà hát, âm nhạc, đọc sách, và nhờ thế Sologub cũng sớm được tiếp xúc với sách vở. Căn cứ vào Bản lý lịch sơ lược (1915) do vợ ông soạn và chính ông đã xem lại, thì "Trong số các cuốn sách đầu tiên được đọc qua, ấn tượng sâu sắc nhất là các nhân vật Robinson, Vua Lia, và Don Kihote... Những cuốn sách ấy đối với Sologub gần như một loại sách kinh". Có ảnh hưởng không kém là các tác phẩm của V.G. Belinski ("Rất cảm động và lôi cuốn"), ông đã đọc toàn bộ tác phẩm của nhà văn này từ tuổi vị thành niên, và sau đó là N.A.Dobroliubov và D.I. Pisarev. Ông gần như thuộc lòng toàn bộ các tác phẩm của N.A. Hekrasov, tuy nhiên lại không thích Puskin và Lermontov mấy. Sự nghiệp sáng tác của Sologub chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nekrasov, X.Ya. Nadson và N.M. Minski. Sau khi tốt nghiệp khoá đào tạo giáo viên ngắn hạn, chàng thanh niên 19 tuổi Sologub trở thành giáo viên dạy toán tại các trường nông thôn xa xôi. Ông dạy học hết mình, thậm chí viết cả sách giáo khoa toán, nhưng không coi giáo dục là sự nghiệp của đời mình. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi, và "ngay từ khi còn nhỏ đã tin chắc vào tài năng thơ ca của mình". Tuy thế, thành công không đến với nhà thơ trẻ ngay, mà chỉ từ thập kỷ 90 của thế kỷ XIX trở đi, sau khi các bài thơ được nhà thơ Minski đọc và đánh giá thì thơ ông mới bắt đầu được biết đến. Năm 1896 tiểu thuyết đầu tiên của ông về đề tài cuộc sống của giáo viên tỉnh lẻ "Những giấc mơ trĩu nặng" ra mắt bạn đọc. Thời kỳ đỉnh cao trong sáng tác của ông là khoảng từ năm 1905–1914 và sau năm 1917. Cuốn tiểu thuyết thứ hai nhan đề Quỷ nhỏ (Мелкий бес) được Sologub hoàn thiện vào năm 1902 nhưng mãi đến năm 1905 mới được công bố trên các trang tạp chí "Các vấn đề cuộc sống" và sau đó được tái bản nhiều lần vào năm 1907, trở thành cuốn sách mà "cả nước Nga phải đọc". Sau đó, đề tài cuộc sống thị dân được Sologub tiếp tục phát triển trong các tiểu thuyết "Navia quyến rũ" (1907–1909) và Khói và tro (1912–1913). Ngoài thơ và văn xuôi, Sologub còn sáng tác các vở kịch lớn như "Cái chết chiến thắng" (1907) được V.E. Meierhold dựng trong nhà hát Komisargievskaya, "Vũ điệu đêm" (1908) và Vanka Kliutchnik và tiểu đồng Gian (1908). Sau năm 1917 sự nghiệp và vinh quang của Sologub có chiều hướng đi xuống, nhưng ông vẫn xuất bản những tuyển tập thơ lớn như Một tình yêu (1921), Fimiam (1921), Cây sáo (1922), Bùa ngải (1922)... Các tuyển tập này được in với tira rất nhỏ, và không được bạn đọc chú ý. Nhà văn chuyển sang dịch thuật. Ông dịch văn học chủ yếu từ tiếng Đức và tiếng Pháp. Năm 1923 các bản dịch thơ Verlen của ông được xuất bản. Ông còn dịch các tác phẩm của Volter, Mopassan. Cho đến nay, các tác phẩm này vẫn được tái bản. Mười năm sau khi ông qua đời, nhà phê bình V. Khodasevich đánh giá ông cao hơn Maikov, nhưng thấp hơn Fet. Cần phải nhấn mạnh là hơn một phần ba số thơ của ông đã không được công bố khi ông còn sống. Sologub mất ngày 5 tháng 12 năm 1927 tại Leningrad. Tiểu thuyết: - Тяжёлые сны (Những giấc mộng nặng nề, 1895) - Мелкий бес (Con quỉ nhỏ, 1905) - Слаще яда (Ngọt hơn nọc độc, 1912) - Заклинательница змей (Phù thuỷ rắn, 1921) Các tập truyện: - Тени (Bóng, 1896) - Жало Смерти (Nọc của Thần chết, 1904) - Книга сказок (Sách cổ tích, 1905) - Политические сказочки (Chuyện cổ tích chính trị, 1906) - Книга разлук (Sách ly biệt, 1908) - Книга очарований (Sách tuyệt vọng, 1909) - Слепая бабочка (Con bướm mù, 1918) Các tập thơ: - Стихи. Книга первая (Thơ. Quyển 1, 1896) - Стихи. Книга вторая (Thơ. Quyển 2, 1896) - Пламенный круг (Vòng lửa, 1908) - Очарования земли (Vẻ quyến rũ của đất đai) - Война (Chiến tranh, 1915) - Небо голубое (Trời xanh, 1921) - Одна любовь (Một tình yêu, 1921) - Костёр дорожный (Lửa trại bên đường, 1922) Kịch: - Литургия Мне (Thánh lễ cho tôi, 1906) - Дар мудрых пчёл (Quà tặng của những con ong khôn, 1906) - Победа Смерти (Chiến thắng của Cái chết, 1907) - Ночные пляски (Xe trượt tuyết đêm, 1908) - Мелкий бес (Con quỉ nhỏ, 1909) - Заложники жизни (Những con tin của cuộc sống, 1910) - Война и мир (Chiến tranh và hoà bình, 1912) - Любовь над безднами (Tình yêu trên bờ vực thẳm, 1914) - Проводы (Dây dẫn, 1914) - Любовь и верность (Tình yêu và lòng chung thuỷ, 1917) Các tuyển tập: - 1909—1911 Собрание сочинений в 12 томах - 1913—1914 Собрание сочинений в 20 томах - 2000—2003 Собрание сочинений в 6 томах - 2001—2003 Собрание стихотворений в 8 томах (do nguyenvanthiet gửi) Fyodor Kuzmich Sologub (Фёдор Кузьмич Сологуб, 1863–1927) tên thật là Fyodor Kuzmich Teternikov, nhà văn Nga. Sinh ngày 17 tháng 2 (1 tháng 3) năm 1863 tại Saint Petersburg. Cha nhà văn là con ngoài giá thú của địa chủ vùng Poltava, một nhà quý tộc sau khi chế độ chủ nô bị bãi bỏ trở thành thợ may ở thủ đô. Cha ông mất vào năm 1867, mẹ ông buộc phải vào làm con hầu trong một gia đình trung lưu. Gia đình này có truyền thống yêu thích nhà hát, âm nhạc, đọc sách, và nhờ thế Sologub cũng sớm được tiếp xúc với sách vở. Căn cứ vào Bản lý lịch sơ lược (1915) do vợ ông soạn và chính ông đã xem lại, thì "Trong số các cuốn sách đầu tiên được đọc qua, ấn tượng sâu sắc nhất là các nhân vật Robinson, Vua Lia, và Don Kihote... Những cuốn sách ấy đối với Sologub gần như một loại sách kinh". Có ảnh hưởng …

Fyodor Kuzmich Sologub (Фёдор Кузьмич Сологуб, 1863–1927) tên thật là Fyodor Kuzmich Teternikov, nhà văn Nga. Sinh ngày 17 tháng 2 (1 tháng 3) năm 1863 tại Saint Petersburg. Cha nhà văn là con ngoài giá thú của địa chủ vùng Poltava, một nhà quý tộc sau khi chế độ chủ nô bị bãi bỏ trở thành thợ may ở thủ đô. Cha ông mất vào năm 1867, mẹ ông buộc phải vào làm con hầu trong một gia đình trung lưu. Gia đình này có truyền thống yêu thích nhà hát, âm nhạc, đọc sách, và nhờ thế Sologub cũng sớm được tiếp xúc với sách vở. Căn cứ vào Bản lý lịch sơ lược (1915) do vợ ông soạn và chính ông đã xem lại, thì "Trong số các cuốn sách đầu tiên được đọc qua, ấn tượng sâu sắc nhất là các nhân vật Robinson, Vua Lia, và Don Kihote... Những cuốn sách ấy đối với Sologub gần như một loại sách kinh". Có ảnh hưởng không kém là các tác phẩm của V.G. Belinski ("Rất cảm động và lôi cuốn"), ông đã đọc toàn bộ tác phẩm của nhà văn này từ tuổi vị thành niên, và sau đó là N.A.Dobroliubov và D.I. Pisarev. Ông gần như thuộc lòng toàn bộ các tác phẩm của N.A. Hekrasov, tuy nhiên lại không thích Puskin và Lermontov mấy. Sự nghiệp sáng tác của Sologub chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nekrasov, X.Ya. Nadson và N.M. Minski.

Sau khi tốt nghiệp khoá đào tạo giáo viên ngắn hạn, chàng thanh niên 19 tuổi Sologub trở thành giáo viên dạy toán tại các trường nông thôn xa xôi. Ông dạy học hết mình, thậm chí viết cả sách giáo khoa toán, nhưng không coi giáo dục là sự nghiệp của đời mình. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi, và "ngay từ khi còn nhỏ đã tin chắc vào tài năng thơ ca của mình". Tuy thế, thành công không đến với nhà thơ trẻ ngay, mà chỉ từ thập kỷ 90 của thế kỷ XIX trở đi, sau khi các bài thơ được nhà thơ Minski đọc và đánh giá thì thơ ông mới bắt đầu được biết đến.

Năm 1896 tiểu thuyết đầu tiên của ông về đề tài cuộc sống của giáo viên tỉnh lẻ "Những giấc mơ trĩu nặng" ra mắt bạn đọc. Thời kỳ đỉnh cao trong sáng tác của ông là khoảng từ năm 1905–1914 và sau năm 1917.

Cuốn tiểu thuyết thứ hai nhan đề Quỷ nhỏ (Мелкий бес) được Sologub hoàn thiện vào năm 1902 nhưng mãi đến năm 1905 mới được công bố trên các trang tạp chí "Các vấn đề cuộc sống" và sau đó được tái bản nhiều lần vào năm 1907, trở thành cuốn sách mà "cả nước Nga phải đọc". Sau đó, đề tài cuộc sống thị dân được Sologub tiếp tục phát triển trong các tiểu thuyết "Navia quyến rũ" (1907–1909) và Khói và tro (1912–1913).

Ngoài thơ và văn xuôi, Sologub còn sáng tác các vở kịch lớn như "Cái chết chiến thắng" (1907) được V.E. Meierhold dựng trong nhà hát Komisargievskaya, "Vũ điệu đêm" (1908) và Vanka Kliutchnik và tiểu đồng Gian (1908).

Sau năm 1917 sự nghiệp và vinh quang của Sologub có chiều hướng đi xuống, nhưng ông vẫn xuất bản những tuyển tập thơ lớn như Một tình yêu (1921), Fimiam (1921), Cây sáo (1922), Bùa ngải (1922)... Các tuyển tập này được in với tira rất nhỏ, và không được bạn đọc chú ý.

Nhà văn chuyển sang dịch thuật. Ông dịch văn học chủ yếu từ tiếng Đức và tiếng Pháp. Năm 1923 các bản dịch thơ Verlen của ông được xuất bản. Ông còn dịch các tác phẩm của Volter, Mopassan. Cho đến nay, các tác phẩm này vẫn được tái bản.

Mười năm sau khi ông qua đời, nhà phê bình V. Khodasevich đánh giá ông cao hơn Maikov, nhưng thấp hơn Fet. Cần phải nhấn mạnh là hơn một phần ba số thơ của ông đã không được công bố khi ông còn sống.

Sologub mất ngày 5 tháng 12 năm 1927 tại Leningrad.

Tiểu thuyết:
- Тяжёлые сны (Những giấc mộng nặng nề, 1895)
- Мелкий бес (Con quỉ nhỏ, 1905)
- Слаще яда (Ngọt hơn nọc độc, 1912)
- Заклинательница змей (Phù thuỷ rắn, 1921)

Các tập truyện:
- Тени (Bóng, 1896)
- Жало Смерти (Nọc của Thần chết, 1904)
- Книга сказок (Sách cổ tích, 1905)
- Политические сказочки (Chuyện cổ tích chính trị, 1906)
- Книга разлук (Sách ly biệt, 1908)
- Книга очарований (Sách tuyệt vọng, 1909)
- Слепая бабочка (Con bướm mù, 1918)

Các tập thơ:
- Стихи. Книга первая (Thơ. Quyển 1, 1896)
- Стихи. Книга вторая (Thơ. Quyển 2, 1896)
- Пламенный круг (Vòng lửa, 1908)
- Очарования земли (Vẻ quyến rũ của đất đai)
- Война (Chiến tranh, 1915)
- Небо голубое (Trời xanh, 1921)
- Одна любовь (Một tình yêu, 1921)
- Костёр дорожный (Lửa trại bên đường, 1922)

Kịch:
- Литургия Мне (Thánh lễ cho tôi, 1906)
- Дар мудрых пчёл (Quà tặng của những con ong khôn, 1906)
- Победа Смерти (Chiến thắng của Cái chết, 1907)
- Ночные пляски (Xe trượt tuyết đêm, 1908)
- Мелкий бес (Con quỉ nhỏ, 1909)
- Заложники жизни (Những con tin của cuộc sống, 1910)
- Война и мир (Chiến tranh và hoà bình, 1912)
- Любовь над безднами (Tình yêu trên bờ vực thẳm, 1914)
- Проводы (Dây dẫn, 1914)
- Любовь и верность (Tình yêu và lòng chung thuỷ, 1917)

Các tuyển tập:
- 1909—1911 Собрание сочинений в 12 томах
- 1913—1914 Собрание сочинений в 20 томах
- 2000—2003 Собрание сочинений в 6 томах
- 2001—2003 Собрание стихотворений в 8 томах

(do nguyenvanthiet gửi)
Fyodor Kuzmich Sologub (Фёдор Кузьмич Сологуб, 1863–1927) tên thật là Fyodor Kuzmich Teternikov, nhà văn Nga. Sinh ngày 17 tháng 2 (1 tháng 3) năm 1863 tại Saint Petersburg. Cha nhà văn là con ngoài giá thú của địa chủ vùng Poltava, một nhà quý tộc sau khi chế độ chủ nô bị bãi bỏ trở thành thợ may ở thủ đô. Cha ông mất vào năm 1867, mẹ ông buộc phải vào làm con hầu trong một gia đình trung lưu. Gia đình này có truyền thống yêu thích nhà hát, âm nhạc, đọc sách, và nhờ thế Sologub cũng sớm được tiếp xúc với sách vở. Căn cứ vào Bản lý lịch sơ lược (1915) do vợ ông soạn và chính ông đã xem lại, thì "Trong số các cuốn sách đầu tiên được đọc qua, ấn tượng sâu sắc nhất là các nhân vật Robinson, Vua Lia, và Don Kihote... Những cuốn sách ấy đối với Sologub gần như một loại sách kinh". Có ảnh hưởng …
Bài liên quan

Grigory Shuvalov Григорий Шувалов

Grigory Shuvalov (1981-) là nhà thơ trẻ Nga, sinh ở Cộng hoà Karelia. Từng là bộ đội biên phòng, làm việc trong ngành xây dựng và trong nhà hát. Anh đã phát biểu về quan niệm thơ của mình như sau: "Hiệu quả của một bài thơ đích thực, tôi muốn ví với những điều xảy ra với con người khi anh ta bị đập ...

Lưu Kiêm 劉兼

Lưu Kiêm 劉兼 năm sinh mất và tự không rõ, người Trường An, sống cuối đời Chu (Ngũ đại) đầu đời Tống, làm quan đến Vinh Châu thứ sử, thơ 1 quyển.

Elena Izrailevna Ryvin Елена Израилевна Рывина

Elena Izrailevna Ryvin (1910-1985) là nữ thi sĩ Nga, sinh ở thành phố Leningrad, qua đời vì tai nạn. Thơ bà có rất nhiều bài được phổ nhạc, trở thành những bài hát nổi tiếng trong những năm 1930. Tuy nhiên các tập thơ của bà chỉ được biết đến từ cuối những năm 60 đầu những năm 70.

Cao Thích 高適

Cao Thích 高適 (702-765) tự Đạt Phu 達夫, người Thương Châu (nay là tỉnh Hà Bắc). Năm Khai Nguyên thứ 22 (đời Đường Huyền Tông), ông theo giúp Tín An Vương lên biên tái đánh giặc Khiết Đan, sau đó lại đi du ngoạn ở vùng Hà Nam. Cho đến năm 40 tuổi, Cao Thích còn lận đận, sống đời áo vải lang thang đây ...

François Coppée

François Coppée (1842-1908) tên đầy đủ là François Édouard Joachim Coppée, nhà thơ, văn, kịch của Pháp.

Hàn Long Ẩn Thích Thiện Long

Hàn Long Ẩn (1972-) là tu sĩ, nhà thơ Việt Nam, pháp tự Thích Thiện Long, sinh ở Thừa Thiên Huế. Đã tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Khoa học Huế; tốt nghiệp khoa tiếng Trung Quốc trường Đại học Sư phạm Sài Gòn; tốt nghiệp khoa Phật học trường Đại học Phật giáo; sau đó sang Trung Quốc và tốt ...

Dmitriy Borisovich Kedrin Дмитрий Борисович Кедрин

Dmitriy Borisovich Kedrin (Дмитрий Борисович Кедрин, 1907-1945) là một nhà thơ, dịch giả người Nga.

Johannes Robert Becher

Johannes Robert Becher sinh ngày 22/5/1891 tại Munich, là con trai của thẩm phán Heinrich Becher. Năm 1910, sau khi tự tử hai lần với người yêu, chỉ còn mình ông sống sót. Năm 1911, sau khi tốt nghiệp phổ thông, ông cho ra đời bản hùng ca "Der Ringende" và tậpo thơ "Verfall und Vernunft", phê phán ...

François-René de Chateaubriand

François-René de Chateaubriand (1768-1848) là một nhà văn, nhà thơ, nhà ngoại giao người Pháp. Ông được coi là người sáng lập ra trào lưu lãng mạn trong văn học Pháp. Ông được bổ nhiệm vào viện Hàn lâm Pháp năm 1811.

Cát Nha Nhi 葛鴉兒

Thân thế chưa rõ, chỉ biết nàng sống vào đời Đường, có chồng nhung biên, một mình đảm đương gia sự. Trong "Toàn Đường thi" còn chép 3 bài thơ của nàng, bao gồm "Hoài lương nhân" 懷良人 và hai bài "Hội tiên thi" 會仙詩.

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...