Edward Stachura (1937-1979) sinh ngày 18-8-1937 ở Pont-de-Chéruy, vùng Isère, Pháp, bố mẹ đều là người Ba Lan di cư qua Pháp vì những lý do kinh tế. Năm lên 11 tuổi, ông theo gia đình trở về sống ở Ba Lan, và học xong trung học ở Gdynia năm 1956. Trước khi vào Đại học Công giáo Lublin năm 1959, rồi Đại học Varsovie, chàng sinh viên tương lai Stachura đã có thơ [“Những giấc mơ tìm thấy lại”, 1957] và truyện ngắn “Jeden dzien” [“Chỉ một ngày”, 1962] đăng trên các tạp chí. Tập thơ Duzo ognia [Rất nhiều ánh lửa] của ông xuất bản năm 1963, hai năm trước khi ông tốt nghiệp Đại học [khoa ngôn ngữ Latinh, với luận văn viết về Henri Michaux]. Năm 1966 đánh dấu chuyến đi xa của ông qua Nam-tư cũng là năm ông cho ra đời tập truyện ngắn Falujac na wietrze [Vẫy trong gió], tiếp sau đó là chùm thơ Przystepuje do ciebie [Ta đến gần em,1966/1968] và bài thơ “Poogrodzie niech hula szarancza” [“Hãy để con châu chấu đùa vui trong vườn”, 1968]. Một học bổng mười hai tháng của chính phủ Mễ-tây-cơ năm 1969/1970 — năm ông xuất bản tiểu thuyết Cala jaskrawosc [Ánh sáng chói loà] — đã giúp ông làm quen với Mỹ La-tinh, và mở ra nhiều chuyến đi xa sau đó: Trung Đông [Damas, Beyrouth, 1971], Na-uy [1972], Thụy-sĩ và Pháp [1973], Hoa Kỳ, Canada và Mễ-tây-cơ [1974/1975]... — song song với một loạt sách xuất bản: Siekierezada [Cắt đẽo, tiểu thuyết, 1971], Wszystko jest poezja [Tất cả là thơ, tiểu luận, 1975], Kropka nad ypsylonem [Một chấm trên Epsilon, thơ, 1975], Sie [Mình, văn xuôi, 1974/1977]. Trước khi qua đời ở Varsovie, ông còn cho xuất bản hai tác phẩm: Missa pagana [thơ, 1978] và Fabula rasa [văn xuôi, 1979]. Tác phẩm cuối cùng của ông có thể là cuốn tự sự Porgodzić się ze śawiatem [Đành chấp nhận thế gian, 1979] viết sau lần nghe “những tiếng nói nội tâm” khiến ông nằm kê tay phải lên đường rầy chờ xe lửa tới cán đứt lìa tháng 4.1979. Sau một thời gian mấy tháng ra vào bệnh viện, kể cả bệnh viện tâm thần, hoặc về quê sống với mẹ để “tìm lại chính mình”[1], ngày 24 tháng 7 năm 1979 ông để lại một bài thơ cuối cùng[2] trên bàn, trong căn hộ của mình ở Varsovie, và treo cổ tự vẫn, chấm dứt một cuộc sống, một chuyến đi có nhiều câu hỏi: “chấp nhận thế gian”, như thế, là quá sức đối với một con người như ông.
Thơ Stachura không thường nói đến những chuyện lớn lao. Được biết là một trong những nhà thơ mà nguồn cảm hứng là những bài thơ của Rimbaud, đề tài của ông nằm trong cuộc sống thường nhật và trong chính kinh nghiệm của ông. Nơi nào ông đặt chân đến cũng là nơi ông tìm cách xâm nhập ngôn ngữ, để có thể phá bỏ những qui luật, sáng tạo những từ mới — những dòng thơ ra đời phải nẩy sinh từ một chủ tâm sáng tạo, phải là một tiếng thét. Ngoài các tác giả Pháp như Henri Michaux, Michel Deguy, Baudelaire, Lautrémont, Valéry, Rimbaud… [và nhiều ca khúc của] Georges Brassens và Jacques Brel, cũng như những bài negro spirituals và những bài ca của người bản xứ ở Mễ-tây-cơ[3], Stachura còn dịch một số các tác giả tiếng Tây-ban-nha như Octavio Paz, Ramon Lopez Velarda, Jorge Luis Borges, Julio Cortazar, Onetti Gabriel, Gabriel Garcia Marquez...
[1] Ông từng từ bỏ gia đình, chọn lựa là kẻ “không cha không mẹ” từ lúc mới mười lăm tuổi. Thời gian về quê sống với mẹ mấy tháng cuối đời chính là thời gian ông dùng tay trái [còn lại] để viết cuốn nhật ký Porgodzić się ze śawiatem.
[2] “Ta chết / cho những lỗi lầm của ta và cho sự vô tội của ta / cho chỗ thiếu mà ta cảm thấy trong mỗi phân tử của thân xác ta và trong mỗi phân tử của tâm hồn ta / cho chỗ thiếu xé ta ra từng mảnh như một tờ báo / đầy ắp những chữ om sòm cất lên mà chẳng muốn nói điều gì.”
[3] Ông còn sáng tác nhạc và cũng là bạn khá thân và từng xuất hiện với cây đàn ghi ta nhiều nơi, trình diễn chung với Charles Aznavour, như một ca sĩ.
Edward Stachura (1937-1979) sinh ngày 18-8-1937 ở Pont-de-Chéruy, vùng Isère, Pháp, bố mẹ đều là người Ba Lan di cư qua Pháp vì những lý do kinh tế. Năm lên 11 tuổi, ông theo gia đình trở về sống ở Ba Lan, và học xong trung học ở Gdynia năm 1956. Trước khi vào Đại học Công giáo Lublin năm 1959, rồi Đại học Varsovie, chàng sinh viên tương lai Stachura đã có thơ [“Những giấc mơ tìm thấy lại”, 1957] và truyện ngắn “Jeden dzien” [“Chỉ một ngày”, 1962] đăng trên các tạp chí. Tập thơ Duzo ognia [Rất nhiều ánh lửa] của ông xuất bản năm 1963, hai năm trước khi ông tốt nghiệp Đại học [khoa ngôn ngữ Latinh, với luận văn viết về Henri Michaux]. Năm 1966 đánh dấu chuyến đi xa của ông qua Nam-tư cũng là năm ông cho ra đời tập truyện ngắn Falujac na wietrze [Vẫy trong gió], tiếp sau đó là chùm thơ Przys…