Đương quy là cây gì
Đương quy có tính ôn, vị ngọt, cay, tác dụng hoạt huyết, bổ huyết, hoạt trường, nhuận táo, thông kinh, điều huyết. Chữa chứng thiếu máu, cơ thể suy nhược, đau ở rốn, kinh nguyệt không đều, đẻ xong máu hôi chảy mãi không đều,… và rất nhiều bệnh khác nữa. Trong y học, cây đương quy là loại ...
Đương quy có tính ôn, vị ngọt, cay, tác dụng hoạt huyết, bổ huyết, hoạt trường, nhuận táo, thông kinh, điều huyết. Chữa chứng thiếu máu, cơ thể suy nhược, đau ở rốn, kinh nguyệt không đều, đẻ xong máu hôi chảy mãi không đều,… và rất nhiều bệnh khác nữa. Trong y học, cây đương quy là loại thảo dược quý hiếm và được sử dụng thường xuyên trong các bài thuốc. Cụ thể như thế nào, chúng ta cùng tìm hiểu nội dung bài viết này.
Tóm tắt nội dung bài viết:
Còn được gọi với các tên khác như vân quy, tần quy. Có tên khoa học là Angelica sinensis (Oliv.) Diels và thuộc họ nhà Hoa tan apraceae (Umbelliferae).
Người ta sử dụng rễ cây phơi hoặc sấy khô. Quy nghĩa là về, vị thuốc này có tác dụng nuôi huyết, điều khí, làm cho huyết đang bị rối loạn trở về chỗ cũ nên mới có tên gọi như vậy.
Mô tả cây
Đương quy thuộc loại cây nhỏ, sống lâu năm, chiều cao từ 40-80cm, thân màu tím có rãnh mọc. Lá mọc so le, 2-3 lần xẻ lông chim, cuống lá dài từ 3-12cm, 3 đôi lá chét; 2 lá chét trên đỉnh không có cuống, 2 lá chét phía dưới có cuống dài, 2 lá chét còn lại xẻ 1-2 lần nữa, mép răng cưa, phía dưới cuống phát triển dài gần ½ cưa, ôm lấy thân. Mua màu xanh trắng rất nhỏ họp thành từng cụm gồm 12-40 hoa, hình tán kép. Ra hoa tầm tháng 7-8. Quả bế màu tím nhạt, có rìa.
Về phân bố, thu hái và chế biến
Hiện nay ta vẫn phải nhập đương quy từ Triều Tiên và Trung Quốc. Cũng đã triển khai trồng thí nghiệm nhiều lần nhưng chỉ mới thành công ở phạm vi nhỏ tại Sapa, chưa thể phổ biến rộng rãi.
Tuy nhiên gần đây người ta đã trồng thành công ở một số đồng bằng quanh Hà Nội do tận dụng tời tiết lạnh của mùa đông, tuy nhiên chất lượng không ổn định.
Bên Trung Quốc, người ta trồng đương quy nhiều nhất ở các tỉnh Tứ Xuyên, Cam Túc, Thiêm Tây, Vân Nam.
Mỗi năm gieo hạt vào mùa thu, sang cuối thu đầu đông nhổ cây con cho vào hố ở dưới đất đợi qua mùa đông. Sang xuân lại trồng, tới đông lại bảo vệ. Có thể thu hoạch vào mùa thu năm thứ 3. Đào rễ lên cắt bỏ rễ con, phơi khô trong nhà hoặc cho vào thùng sấy lửa nhẹ, sau đó phơi trong thoáng mát cho khô. Trên thị trường người ta phân biệt quy đầu là rễ chính và cổ rễ, quy thoái hay quy nhân là rễ phụ lớn hay phần dưới của rễ chính, quy vĩ là rễ phụ nhỏ. Phân biệt như vậy là bởi đông y cho rằng chất lượng của các loại rễ này có khác nhau, nhưng ở Trung Quốc người ta không quan trọng cả thị trường trong nước hay xuất khẩu. Toàn bộ rễ chính lẫn phụ đều được gọi là toàn quy.
Về thành phần hóa học
Trong đương quy chứa tinh dầu. Có nghiên cứu xác định tinh dầu màu vàng sẫm, trong, tỷ lệ 0,02%, tỷ trọng 0,955 ở 15oC, tỷ lệ axit tự do chiếm 40%; tinh dầu có thành phần chủ yếu giống tinh dầu đương quy Nhật Bản (Thực vật dược phẩm hóa học của Lâm Khải Thọ, trang 384 và Dược học thông báo, 1954, trang 432.
Trong đương quy Nhật Bản Angelica acutiloba (Sieb. Et Zucc). Kitagawa Ligusticum acutilobum (Sieb. Et Zucc) chứa tinh dầu với thành phần chủ yếu gồm n-valerophenon O-cacboxy-axit C12H14O3 và n-bytylidenphtalit C12H12O2. Ngoài ra còn có becgapten C12H8O4, n-butylphtalit C12H14O2, safrola, sesquitecpen và 1 ít vitamin B12.
Về tác dụng dược lý
Từ lâu đương quy đã được nghiên cứu về mặt dược lý, dưới đây là một số tác dụng điển hình:
1. Tác dụng với tử cung và các cơ trơn. Gồm 2 tác dụng là gây ức chế và gây kích thích
Theo Schmidt, Trần Khắc Khôi và Y Bác An (1924 Chinese Med J. 38:362) cho rằng hoạt chất chiết từ toàn bộ vị đương quy (rượu nhẹ độ thấm kiệt hoặc dùng nước đun sắc), tiêm cho chó đã gây mê (tĩnh mạch) cho kết quả tử cung 10 con không chửa có 37,5% hiện tượng co, còn chó không chửa hoặc đẻ không lâu tới 100% hiện tượng co tử cung. Các cơ quan có cơ trơn khác như bàng quang, ruột cũng có hiện tượng đó, bên cạnh đó huyết áp hạ thấp và có công dụng lợi tiểu (là do tỷ lệ sacaroza cao).
Trường hợp sử dụng tinh thể chiết từ đương quy (không có đường, không có tính chất bay hơi và kiềm tính) tiêm vào tĩnh mạch con thỏ thì thấy sức co bóp tử cung tăng mạnh, nhưng không hạ huyết áp mà lại tăng cao. Nếu lấy tinh thể trên pha vào dung dịch Tyrốt 1/2.000.000, tiến hành thí nghiệm trên tử cung cô lập của thỏ thì xảy ra hiện tượng co bóp kéo dài, nếu là dung dịch tỷ lệ 1/100.000 thì có hiện tượng co bóp mạnh. Các tác giả đều cho rằng, tính chất kích thích này là do tác dụng trực tiếp lên cơ trơn.
Kinh nghiệm sử dụng trên lâm sàng cho thấy đương quy có công dụng làm dịu tử cung co quắp. Trong báo cáo của Triệu Túc Quân, Dương Đại Vọng (1948 Trung Hoa y học tạp chí 34:457) đương quy chữa thống kinh cho 129 bệnh nhân (kinh nguyệt đau đớn) tất cả đã sử dụng 257 lần thì thấy kết quả tốt, không xảy ra triệu chứng không tốt, lại làm gia tăng sự phát dục ở tử cung. Tác giả đề xuất 3 công dụng của đương quy:
(1) Ức chế sự co ở tử cung, làm giảm nghỉ sự căng của tử cung, trực tiếp giúp hành kinh không đau.
(2) Do cơ tử cung đươc giản nghỉ, khiến lưu thông huyết mạnh, từ đó cải thiện sự dinh dưỡng tại chỗ, giúp cho tử cung nhanh bình thường, gián tiếp trị chứng thống kinh.
(3) Tác dụng làm cho ruột trơn giúp chữa táo bón, làm giảm sung huyết tại vùng xương chậu từ đó tham gia làm giảm đau lúc kinh nguyệt.
2. Tác dụng trên hiện tượng thiếu vitamin E
Theo Nghê Chương Kỳ (1941. Chinese J. Physiol. 16; 373) lấy thức ăn thiếu vitamin E nuôi chuột từ 2-5 tháng, 100% chuột bị những chứng bệnh ở tinh hoàn do thiếu vitamin E; khi bổ sung thêm thức ăn chứa 5-6% đương quy thì 38% chuột không còn các triệu chứng thiếu vitamin E nữa. Các vị thuốc đan sâm, dâm dương hoắc, xuyên khung, tục đoạn cũng có công dụng tương tự. Nghê Chương Kỳ cho rằng sở dĩ nhân dân ta dung đương quy làm thuốc an thai phải chăng là do nguyên nhân trên.
3. Tác dụng lên trung khu thần kinh
Một tác giả Nhật Bản (Tửu tinh hòa thái lang, 1933) đã nghiên cứu và cho rằng tinh dầu đương quy có tác dụng trấn tĩnh hoạt động của đại não ban đầu thì hưng phấn trung khu tủy sống, sau thì tê liệt, dẫn đến huyết áp hạ thấp, nhiệt độ cơ thể hạ thấp, mạch đập chậm lại và sinh hiện tượng co quắp; trường hợp tiêm dưới da thỏ thì các hiện tượng trên không rõ rệt, chỉ làm liệt hô hấp trước, rồi mới đến liệt tim.
4. Tác dụng lên hô hấp và huyết áp
Theo Schmidt, Trần Khắc Khôi, Y Bác An (1924 Chinese Med. J. 38; 362) tinh dầu đương quy có công dụng hạ huyết áp, nhưng thành phần không bay hơi của nó lại có tính chất làm co cơ trơn ở thành mạch máu làm cho tăng cao huyết áp.
Trương Diệu Đức, Trương Phát Sơ, Lưu Thiệu Quang (1935 Trung Hoa y học tạp chí 21:611) đã theo dõi tác dụng của tinh dầu đương quy trên chó, mèo, thỏ đối với hô hấp và huyết áp thì tủy theo liều lượng lớn nhỏ mà tiêm tinh dầu vào mạch máu cho ra tác dụng khác nhau.
a) Liều nhỏ: Áp huyết hạ thấp, hô hấp hơi bị kích thích hoặc bị ảnh hưởng rất ít.
b) Liều trung bình: Hô hấp khó khăn, huyết áp hạ thấp nhiều hơn.
c) Liều lớn: Hô hấp khó khăn rõ rệt, cuối cùng ngừng hô hấp gây chết, huyết áp hạ rất mạnh.
Tác dụng làm hô hấp khó khăn trên thỏ ít hơn với chó và mèo, vì vậy có thể nói độ độc của đương quy đối với hô hấp và huyết áp rất thấp.
5. Tác dụng lên cơ tim
Theo Ngụy Liên Cơ (1950 sinh lý học báo 20 (2), 105-110 Trung văn) thì tác dụng lên tim của đương quy giống với quinidin. Thành phần chủ yếu có tác dụng này nằm ở trong phần tan trong ête êtylic.
6. Tác dụng kháng sinh
Vào năm 1950, báo cáo của Lưu Quốc Thanh về nước sắc đương quy có công dụng kháng sinh đối với tụ cầu trùng và trực trùng lỵ.
Về công dụng và liều dùng đương quy
Theo đông ty đương quy có tính ôn, vị ngọt, cay. Vào 3 kinh là tâm, can, tỳ. Có công dụng hoạt huyết, bổ huyết, hoạt trường, nhuận táo, thông kinh, điều huyết.
Đương quy là vị thuốc rất phổ biến trong đông y. Nó là đầu vị trong các thuốc chữa bệnh phụ nữ, đồng thời sử dụng trong nhiều đơn thuốc bổ và trị bệnh khác.
Chủ yếu dùng để chữa bệnh kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng (uống trước 7 ngày thấy kinh). Mỗi ngày dùng từ 6-15g dưới dạng thuốc sắc (uống 2 lần mỗi ngày) hoặc thuốc rượu mỗi lần 10ml, uống ngày 3 lần trong 7-14 ngày. Ngoài ra còn làm thuốc bổ huyết, chữa thiếu máu, lạnh và đau nhức chân tay.
Đơn thuốc có đương quy trong đông y:
Bài thuốc tứ vật (tứ vật thang) gồm đương quy và thục địa 12g mỗi loại, xuyên khung và bạch thược 8g mỗi loại, săc với 600ml đến khi còn 1/3. Chia ra uống ngày 3 lần, giúp chữa chứng thiếu máu, kinh nguyệt không đều, cơ thể suy nhược, đẻ xong máu hôi chảy mãi không ngừng, đau ở rốn.
Những phụ nữ sau khi sinh đẻ mắc lắm bệnh có khi sử dụng bài tuốc tứ vật trên kết hợp thêm hắc đậu (đậu đen), hắc can khương, ngưu tất, trạch lan, bồ hoàng, ích mẫu.
Bài thuốc đương quy kiện trung thang của Trương Trọng Cảnh để chữa các bệnh phụ nữ như sau khi sinh bị thiết máu, làm thuốc bổ huyết: 7g đương quy, đại táo, sinh khương, quý chi 6g mỗi vị, 10g thược dược, 50g đường phèn, cho 600ml vào sắc còn 1/3, chia ra uống 3 lần trong ngày.
Chữa chứng chảy máu cam không ngừng: Dùng đương quy sao khô tán nhỏ, dùng mỗi lần 4g với 2-3 lần mỗi ngày. Sử dụng với nước cháo cho hiệu quả.
Làm viên dưỡng não (chữa chứng mất ngủ, ngủ hay mê, nhức đầu): Lấy 100g đương quy, 40g xương bồ, 40g viễn chí, 60g ngũ vị, 60g táo nhân, 40g dởm tinh, 80g khởi tử, 40g long cốt, 40g thiên trúc hoàng, 40g hổ phách, 60g ích trí nhân, 60g bá tử nhân, 80g nhục thung dung, 80g hồ đào nhục, 40g chu sa. Tất cả mang tán bột, trộn với mật ong viên mỗi hoàn 4g. Mỗi lần uống 1 viên, mỗi ngày 2 lần trong vòng 15 ngày.
Bài thuốc trên đã áp dụng và cho kết quả rất tốt ở bệnh viện Bạch Mai bao gồm mất ngủ khỏi 85%, ngủ mê đạt 77,22%, đau đầu đạt 79,59%, vàng đầu khỏi 78,65%.
Cần chú ý:
Trong đông y người ta phân biệt giữa quy đầu, quy thân và quy vĩ có công dụng là khác nhau. Mới đây người ta còn chứng minh tỷ lệ tinh dầu ở mỗi bộ phận này là khác nhau. Do vậy, kinh nghiệm của người xưa chắc chắn là có lý. Như chia sẻ ở phần trên, một số thầy thuốc xưa quan niệm: Theo Hoàng Cung Tú thì quy đầu có khả năng cầm máu đi lên, quy thân giúp nuôi huyết ở trung bộ, quy vĩ thì phá huyết đi xuống dưới. Toàn quy giúp hoạt huyết. Quy vị cay thì hay tán, người nào hư, hỏa thịnh nên kiêng; vị ngọt thì ủng tắc, người nào tỳ vị hư hàn chớ nên dùng, thể nhuận tinh hoạt, người nào tiết tả nên kiêng.
Một tác giả cổ là Chương Sơn Lôi cho rằng: Quy nhân chủ thủ có tác dụng bồi dưỡng, quy vĩ chủ thông có tác dụng công trục ứ, quy đầu có tính đi lên trên chữa các chứng niệu huyết (tiểu tiện ra huyết), tiện huyết hay hưu hiệu nhưng chữa thổ huyết, nục huyết (chảy máu cam) mà dùng thì có khác gì chắp cánh cho hổ, cho nên dùng thuốc phải sành chớ nên ngộ nhận 2 chữu chỉ huyết (cầm máu) mà hại người.
Tác dụng của đương quy qua các bài thuốc sưu tầm:
1. Chữa thiếu máu dẫn tới hoa mắt, chóng mặt, người gầy yếu, da dẻ xanh xao: Đương quy, thục địa, bạch thược, xuyên khung lấy 12g mỗi vị. Sắc uống mỗi ngày 1 thang, uống liên tục từ 3-4 tuần giúp thuyên giảm các triệu chứng trên.
2. Huyết và khí kém, người mệt mỏi, vô lực, gầy còm, da xanh xao: Lấy 12g đương quy và 40g hoàng kỳ. Sắc uống mỗi ngày 1 thang, uống liên tục từ 3-4 tuần.
Có thể dùng đương quy, bạch linh, nhân sâm (đảng sâm), bạch thược, thục địa, bạch truật 12g mỗi loại, 8g xuyên khung và 6g cam thảo. Sắc uống mỗi ngày 1 thang, uống liên tục từ 3-4 tuần. Có thể dùng dưới dạng viên bằng cách tán bột, viên tròn với mật ong để uống dài ngày.
3. Chữa đau bụng kinh, bế kinh: Đương quy, ngưu tất, sinh địa, xuyên khung, hồng hoa 6g mỗi loại, 8g chỉ xác, 4g sài hồ và 4g cam thảo. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.