24/05/2018, 21:21

Đánh giá chung tình hình công nghiệp trong 3 năm (2001-2003)

Đáp ứng nhu cầu về năng lượng điện là điều rất quan trọng đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong 3 năm qua, Ngành điện đạt mức tăng trưởng cao nhất trong số các ngành công nghiệp đáp ứng đ­ược nhu cầu ...

Đáp ứng nhu cầu về năng lượng điện là điều rất quan trọng đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong 3 năm qua, Ngành điện đạt mức tăng trưởng cao nhất trong số các ngành công nghiệp đáp ứng đ­ược nhu cầu điện của nền kinh tế quốc dân. Năm 2001, điện sản xuất đạt 30,6 tỷ KWh, tăng 15% so với năm 2000, năm 2002 đạt 35,8 tỷ Kwh, tăng 17% so với năm 2001, năm 2003 đạt 40,92 tỷ Kwh, tăng 14,3% so với năm 2002. Điện thơng phẩm t­ương ứng năm 2001 đạt 25,8 tỷ Kwh, tăng 14% so với năm 2000, năm 2002 đạt 30 tỷ Kwh, tăng 16% so với năm 2001, năm 2003 đạt 34,84 tỷ Kwh, tăng 14% so với năm 2002.

Ba năm qua, sản lượng điện phát ra tăng bình quân 15,4%/năm, điện thơng phẩm tăng bình quân 14,6%/năm. Nh­ vậy, cả điện sản xuất và điện thơng phẩm năm 2003 đã gần đạt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm và tốc độ tăng trưởng cao hơn so với chỉ tiêu kế hoạch (13,1%).

Mặc dù vậy, ngành điện vẫn ch­a đáp ứng đ­ược nhu cầu một cách vững chắc, còn nhiều sự cố trên l­ới điện, thiếu điện về mùa khô và có khả năng thiếu điện trong t­ương lai do các dự án điện triển khai chậm và một phần do dự báo nhu cầu điện ch­a thật chính xác. Tình trạng độc quyền trong ngành điện cũng hạn chế phần nào sự tham gia của các nhà đầu tư­ trong và ngoài nước.

Năm 2001: Khai thác dầu thô đạt 16,7 triệu tấn, tăng 2,8% so với năm 2000, khí khô đạt 1,7 tỷ m3. Tổng lượng khai thác dầu khí quy đổi đạt 18,4 triệu tấn, tăng 3,4% so với năm 2000.

Năm 2002: Khai thác dầu thô đạt 16,6 triệu tấn, giảm 0,6% so với thực hiện năm 2001, khai thác 2,1 tỷ m3 khí. Tổng lượng khai thác dầu khí quy đổi đạt 18,7 triệu tấn, tăng 1,6% so với năm 2001.

Năm 2003: Khai thác dầu thô đạt 17,27 triệu tấn, 3,7 tỷ m3 khí; sản lượng dầu khí quy đổi đạt 20,97 triệu tấn, tăng 12% so với năm 2002.

Rõ ràng là ngành dầu khí đang đứng trước thách thức rất lớn, sản lượng khai thác dầu thô khó gia tăng trong thời gian tới do nguồn tài nguyên bị hạn chế, (mỏ dầu lớn nhất nước là Bạch Hổ đang phải giảm dần sản lượng khai thác, dự kiến mỗi năm phải giảm khai thác từ 1-2 triệu tấn. Đây là mức độ giảm rất lớn mà khó có nguồn khác thay thế nên trong 10 năm tới.

Trong 3 năm 2001- 2003, ngành than đều thực hiện v­ợt mức kế hoạch đề ra, sản lượng than sạch các năm nh­ sau: năm 2001 đạt 13,4 triệu tấn, tăng 15,4% so với năm 2000; năm 2002 đạt 16,3 triệu tấn, tăng 21% so với năm 2001; năm 2003 đạt 19 triệu tấn, tăng 16,5% so với năm 2002 và đã hoàn thành sớm hơn 2 năm so với mục tiêu của Đại hội Đảng IX đề ra cho năm 2005.

Về đầu tư­: Bên cạnh việc đầu tư­ phục vụ duy trì và phát triển mỏ, ngành đã đầu tư­ một số dự án lớn nh­ nhiệt điện Na D­ương, Cao Ngạn, và chuẩn bị đầu tư­ nhiệt điện Cẩm Phả nhằm sử dụng hợp lý hơn tài nguyên quốc gia. Sự tăng trưởng của ngành than khá cao trong 3 năm qua đã góp phần không nhỏ trong việc tăng trưởng của một số ngành nh­ điện, xi măng và vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, ngành than cần xem xét đáng giá tính hiệu quả của việc xuất khẩu than và cần tìm giải pháp để tiêu thụ than chất lượng thấp ở trong nước thay cho xuất khẩu.

Trong 3 năm qua, ngành thép có tốc độ tăng trưởng cao về sản xuất thép xây dựng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Sản lượng thép cán năm 2001 đạt 1,9 triệu tấn, tăng 20% so với năm 2000; năm 2002 đạt 2,44 triệu tấn, tăng 28% so với năm 2001; năm 2003 đạt 2,68 triệu tấn, tăng 9,8% so với năm 2002. Công suất cán thép xây dựng đến cuối năm 2003 là 4 triệu tấn/năm đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước. Trong giai đoạn 2001-2003 nhiều nhà máy cán thép dài với công nghệ khá hiện đại, quy mô trung bình đ­ược đầu tư­ và đi vào sản xuất, hoàn thành đầu tư­ cải tạo giai đoạn 1 Gang thép Thái Nguyên.

Nh­ vậy, ngành thép vẫn còn bị lệ thuộc nhiều vào nguồn cung cấp đầu vào từ nhập khẩu phôi thép và thép thành phẩm nên giá thép trong nước sẽ bị biến động mạnh khi giá trên thị trường thế giới thay đổi. Giá trị gia tăng trong ngành thép không cao, sản phẩm thép cho ngành cơ khí chế tạo phải nhập khẩu là những tồn tại chủ yếu của ngành thếp cần có giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Đây là lĩnh vực nước ta có tiềm năng: đá vôi và than. Do có chính sách kích cầu của Chính phủ nh­ kiên cố hoá kênh m­ương, cầu và đ­ường giao thông cùng với hàng loạt các công trình xây dựng lớn như­ các khu đô thị mới, các công trình phục vụ sea games 22..., nên trong 3 năm qua nhu cầu tiêu thụ xi măng cũng tăng trưởng với tốc độ cao(cao hơn dự báo). Năm 2001, sản lượng xi măng sản xuất đạt 15,4 triệu tấn, tăng 16% so với năm 2000; năm 2002 đạt 20,4 triệu tấn, tăng gần 32% so với năm 2001; năm 2003 đạt 23,2 triệu tấn, tăng 14% so với năm 2002. Tốc độ tăng trưởng của ngành xi măng 3 năm 2001-2003 cao hơn nhiều so với kế hoạch.

Trong giai đoạn 2001-2003, đã đ­a Nhà máy xi măng Hoàng Mai (công suất 1,4 triệu tấn) vào sản xuất, cải tạo nâng công suất Nhà máy xi măng Bỉm Sơn từ 1,2 triệu tấn/năm lên 1,8 triệu tấn/năm (thêm 600 ngàn tấn), cải tạo Nhà máy xi măng Sao Mai nâng công suất tăng thêm 600 ngàn tấn/năm. Tổng công suất tăng thêm 2,55 triệu tấn đã đáp ứng một phần nhu cầu gia tăng về xi măng trong những năm vừa qua.

0