25/05/2018, 09:40

Con sinh ra từ quan hệ vợ chồng

Con sinh ra từ quan hệ như vợ chồng Bằng chứng thông thường về quan hệ cha mẹ-con Giấy khai sinh và yếu tố xã hội học . Việc khai sinh cho con ngoài giá thú cũng được thực hiện theo cùng một thủ tục như việc khai sinh cho con sinh ra từ hôn ...

Con sinh ra từ quan hệ như vợ chồng

Bằng chứng thông thường về quan hệ cha mẹ-con

Giấy khai sinh và yếu tố xã hội học. Việc khai sinh cho con ngoài giá thú cũng được thực hiện theo cùng một thủ tục như việc khai sinh cho con sinh ra từ hôn nhân: người khai, giấy chứng sinh hoặc người làm chứng... Tuy nhiên, độ tin cậy của các lời khai về lai lịch cha, mẹ của con ngoài giá thú không được bảo đảm tốt như trong trường hợp con sinh ra từ hôn nhân. Có thể nghĩ rằng trong mọi trường hợp, các chi tiết về người mẹ thường có độ chính xác cao; còn các chi tiết về người cha của con ngoài giá thú, được ghi nhận trong khai sinh, thì chưa hẳn: không loại trừ khả năng một người được khai là cha của một đứa trẻ là do “sáng kiến” của người mẹ hoặc người khai, người được khai là cha của đứa trẻ hoàn toàn không biết việc mình được gán cho tư cách đó. Trên thực tế, viên chức hộ tịch chỉ ghi nhận tên họ cha trên giấy khai sinh trong trường hợp người được khai là cha đồng thời cũng là người khai sinh. Nếu người khai sinh khai tên họ của một người khác như là cha của người được khai sinh, thì viên chức hộ tịch sẽ từ chối ghi nhận lời khai đó và để trống mục tên họ cha trên giấy khai sinh. Tuy nhiên, do không có quy định rành mạch của luật ở điểm này, mà viên chức hộ tịch cũng có thể ghi nhận một cách dễ dãi lời khai của người khác về lai lịch của cha đứa trẻ. .

Nói chung, nếu giấy khai sinh có ghi tên họ cha và người có tên trên giấy đó cư xử công khai với tư cách cha của người được khai sinh theo giấy đó, thì quan hệ cha-con ruột ngoài giá thú coi như được chứng minh. Quan hệ cha-con cũng có thể coi là được thiết lập, dù không được chắc chắn lắm về mặt pháp lý, trong trường hợp giấy khai sinh ghi nhận tên họ cha theo lời khai của chính người tự xưng là cha, dù giữa các đương sự không có yếu tố xã hội học của quan hệ cha-con. Nhưng không thể nói rằng quan hệ cha-con đã được chứng minh, nếu tên họ cha được ghi nhận trên giấy khai sinh mà người được khai là cha lại không hề hay biết và cũng không bao giờ cư xử với người được khai là con... như con.

Nhận con ngoài giá thú

Nhận con ngoài giá thú là một thủ tục hành chính cho phép một người nhìn nhận một người khác là con của mình trong điều kiện không có tranh chấp và người được nhận là con không được coi là con của bất kỳ người nào khác có cùng giới tính với người thừa nhận. Điều đó có nghĩa là:

- Người được thừa nhận phải chưa được xác định (theo thủ tục tư pháp) là con của một người khác có cùng giới tính với người thừa nhận, theo một bản án có hiệu lực pháp luật;

- Người được thừa nhận phải chưa từng được thừa nhận (theo thủ tục hành chính) là con của một người khác có cùng giới tính với người muốn thừa nhận;

- Người được thừa nhận không được suy đoán là con chung của vợ chồng do áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1;

- Người được thừa nhận không mang tư cách con ngoài giá thú của một người cùng giới tính với người muốn thừa nhận, tư cách được chứng minh bằng giấy khai sinh và yếu tố xã hội học.

Thủ tục theo văn bản lập quy. Thủ tục này được ghi nhận tại Nghị định 83-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, nhưng lại không được ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quan tâm đến việc nhận con hoặc nhận cha mẹ theo thủ tục tư pháp. Thực ra, ta đã biết rằng Nghị định số 83-CP đã dẫn không phải là văn bản hướng dẫn thi hành Luật này; nhưng điều tế nhị là: dù được ban hành sau Nghị định, Luật không lấy lại (và tiếp tục hoàn thiện) các quy tắc trong Nghị định. Có lẽ người làm luật còn muốn tiếp tục thử nghiệm các giải pháp của văn bản lập quy trong một thời gian.

Nộp hồ sơ. Người xin nhận cha, mẹ phải nộp một hồ sơ cho UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được gọi là con. Hồ sơ gồm có (Nghị định số 83, đã dẫn, Điều 48):

- Giấy khai sinh của con;

- Sổ hộ khẩu gia đình của con;

- Chứng minh nhân dân của người khai nhận;

- Các giấy tờ cần thiết khác chứng minh quan hệ cha-con, mẹ-con.

Nếu không có các giấy tờ đó, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế (cùng điều luật).

Trong trường hợp một người mà tính mạng bị cái chết đe doạ do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác, không thể đến UBND khai nhận người khác là con mình, thì đơn được thay thế bằng văn bản có xác nhận của hai người làm chứng về nguyện vọng nhận con của người đó.

Sự đồng ý của một số người. Trong trường hợp con đang được người khác nuôi dưỡng, thì việc nhận con phải được sự đồng ý của người nuôi dưỡng đó. Nếu người được nhận là con từ đủ 9 tuổi trở lên, thì còn phải có sự đồng ý của người đó (Nghị định số 83 đã dẫn Điều 48) .

Thụ lý và quyết định. Sau khi nhận đủ giấy tờ cần thiết, UBND tiến hành xác minh và niêm yết công khai việc xin nhận con tại trụ sở UBND trong thời hạn 7 ngày (Nghị định đã dẫn Điều 50). Trong trường hợp cần xác minh thêm, thì thời hạn kéo dài không quá 7 ngày.

Trong trường hợp không có đủ cơ sở để công nhận việc khai nhận con, thì UBND mời người khai nhận đến để thông báo về việc từ chối đăng ký (Nghị định đã dẫn, Điều 51). Lý do từ chối phải được ghi rõ bằng văn bản. Người bị từ chối có quyền khiếu nại.

Nếu thấy có đủ cơ sở để công nhận việc khai nhận con, thì UBND thông báo cho các đương sự về ngày đăng ký khai nhận con. Khi đăng ký, các đương sự phải có mặt. Nếu người khai nhận ở trong tình trạng bệnh tật hiểm nghèo, thì người thân thích hoặc người được uỷ quyền của người đó có thể thay mặt người đó để đăng ký. Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chinh quyết định công nhận việc cha mẹ nhận con; cán bộ hộ tịch tư pháp ghi nhận sự việc vào sổ đăng ký nhận cha, mẹ, con.

Xác lập quan hệ cha mẹ-con. Nghị định số 83-CP chỉ quy định các thủ tục hành chính về đăng ký hộ tịch, trong đó có việc đăng ký thừa nhận con hoặc thừa nhận cha mẹ. Vấn đề hiệu lực pháp lý của các giao dịch đăng ký hộ tịch, trong đó có đăng ký thừa nhận, không được đặt ra. Tuy nhiên, có thể nghĩ rằng do mang đậm dấu ấn của ý chí, việc thừa nhận có tác dụng thiết lập bằng chứng thuyết phục về quan hệ cha mẹ-con, thậm chí thuyết phục hơn việc khai sinh. Trước hết, việc đó mang ý nghĩa của một lời tuyên bố về sự tồn tại trước đó của quan hệ cha mẹ-con. Lời tuyên bố đó có hiệu lực đối với tất cả mọi người. Kế đến, đó là lời tuyên bố không thể bị huỷ bỏ: người thừa nhận không thể, ví dụ, mong muốn chấm dứt quan hệ cha (mẹ)-con bằng cách huỷ bỏ việc thừa nhận, như người ta huỷ bỏ một hợp đồng.

Nhưng, với tư cách là một bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con, việc thừa nhận có thể bị đánh đổ bởi các bằng chứng khác thuyết phục hơn. Việc bác bỏ sự thừa nhận phải được thực hiện trong khuôn khổ một vụ án dân sự ( Ngay cả trong trường hợp sự thừa nhận bị bác bỏ bởi chính người đã thừa nhận, thì việc bác bỏ cũng phải được Toà án xem xét và xác định.)

0