25/05/2018, 09:39

Quan hệ tài sản

giữa vợ chồng Nhận xét chung Không có nghĩa vụ hỗ trợ vật chất giữa vợ chồng ? Luật không có quy định rành mạch về nghĩa vụ hỗ trợ vật chất giữa vợ và chồng. Có lẽ đó là vì người làm luật cho ...

giữa vợ chồng

Nhận xét chung

Không có nghĩa vụ hỗ trợ vật chất giữa vợ chồng ? Luật không có quy định rành mạch về nghĩa vụ hỗ trợ vật chất giữa vợ và chồng. Có lẽ đó là vì người làm luật cho rằng nghĩa vụ này tồn tại như là hệ quả tự nhiên của hôn nhân và là một nghĩa vụ tự nhiên. Trên thực tế, đa số cặp vợ chồng sống chung trong một nhà và cùng nhau chia sẻ những gì họ có. Đơn giản, luật nói rằng vợ chồng có nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ nhau, như ta đã biết.

Các tình huống trong thực tiễn khá đa dạng: vợ chồng sống bằng thu nhập của người chồng và trong nhà không còn gì để ăn mà chồng vẫn không chịu đưa tiền lương cho vợ; vợ chồng sống mỗi người một nơi và chồng đang lâm vào cảnh túng thiếu mà vợ lại quay lưng, bỏ mặc chồng trong cảnh sống đói khát; vợ bệnh nặng và cần tiền để chi phí thuốc men, nhưng chồng cứ giữ chặt thu nhập cá nhân chờ đến lúc cần chi cho các buổi ăn nhậu với bạn bè;...

Hẳn người soạn thảo các điều luật liên quan đến quan hệ giữa vợ chồng nghĩ rằng do những nhu cầu thiết yếu của gia đình thường được đáp ứng bằng thu nhập của vợ, chồng và do thu nhập của vợ, chồng được luật quy định là tài sản chung, mà chẳng cần quy định nghĩa vụ hỗ trợ vật chất giữa vợ chồng làm gì. Trên thực tế, tính chất ”chung” của quyền sở hữu đối với thu nhập cá nhân không gây trở ngại pháp lý cho việc người tạo thu nhập tự mình sử dụng, định đoạt các thu nhập ấy. Trong điều kiện đó, nghĩa vụ hỗ trợ vật chất giữa vợ chồng, bên cạnh nghĩa vụ chăm sóc, nuôi duỡng của cha mẹ đối với con, tỏ ra cần thiết như một biện pháp kiểm soát việc sử dụng, định đoạt tài sản chung có nguồn gốc từ thu nhập cá nhân.

Chế độ tài sản. Trong luật Việt Nam hiện hành, tất cả các cặp vợ chồng, về mặt quan hệ tài sản, đều chịu sự chi phối của một chế độ duy nhất, chế độ pháp định. Về nội dung, chế độ tài sản pháp định của vợ chồng có rất nhiều nét cơ bản giống với chế độ pháp định được xây dựng trong luật của Pháp. Mặt khác, luật hiện hành thừa nhận rằng ngay trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể tiến hành phân chia tài sản chung trong một vài trường hợp được luật dự kiến.

Các quy tắc nền tảng về quản lý

Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc quản lý công việc gia đình

Có quyền và thực hiện quyền. Vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 19). “Ngang nhau”, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong quản lý công việc của gia đình có tác dụng thiết lập tình trạng cộng đồng quản lý đối với các công việc đó. Gia đình hiện đại, khác với gia đình cổ, có đến hai người đứng đầu. Điều đó không nhất thiết có nghĩa rằng cả hai người đều phải cùng nhau thực hiện công việc quản lý; song, ở góc độ ra quyết định, công tác quản lý dựa trên sự nhất trí của cả hai người. Tùy tính chất, tầm quan trọng của công việc, sự nhất trí có thể được suy đoán dựa vào thái độ chấp nhận mặc nhiên hoặc cần phải được bày tỏ một cách rõ ràng.

Đối tượng quản lý bao gồm tất cả các công việc gắn liền với lợi ích vật chất và tinh thần của gia đình. Lợi ích đó cũng là mục đích của công tác quản lý.

Nhu cầu của gia đình

Nguyên tắc. “Vợ hoặc chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 25). Tình trạng liên đới được xác lập trên cơ sở quan hệ hôn nhân chứ không dựa vào quan hệ chung sống của vợ chồng. Bởi vậy, sự liên đới không tồn tại giữa hai người chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; trái lại, sự liên đới tồn tại cả trong trường hợp vợ chồng kết hôn hợp pháp nhưng lại có nơi ở khác nhau (nghĩa là không chung sống thực tế): vợ (chồng), về mặt lý thuyết, phải chịu trách nhiệm thanh toán các chi phí cho việc đáp ứng các nhu cầu cần thiết đối với cuộc sống của chồng (vợ) cư trú ở nơi khác.

Điều kiện áp dụng nguyên tắc. Tuy nhiên, sự liên đới trong trường hợp này lệ thuộc vào một số điều kiện:

- Giao dịch phải hợp pháp. Chắc chắn, đó không thể là các giao dịch có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội. Song, liệu vợ và chồng có chịu trách nhiệm liên đới trong trường hợp giao dịch vô hiệu, đặc biệt là trong việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả những gì đã nhận trong khuôn khổ thực hiện giao dịch vô hiệu đó ? Người vợ mua một tấm vải để may quần áo cho chồng; giao dịch bị tuyên bố vô hiệu do người bán bị mất năng lực hành vi; người chồng có cùng liên đới với người vợ trong việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tấm vải đã mua?

- Giao dịch phải nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Các tiêu chí của “nhu cầu sinh hoạt thiết yếu” có thể thay đổi theo sự phát triển của xã hội tiêu thụ. Có những nhu cầu rất cơ bản, chung đối với gia đình ở mọi nơi và trong mọi thời đại: thức ăn, quần áo của các thành viên, thuốc men, chi phí giáo dục con cái, bảo quản nhà cửa,... Có những nhu cầu đặc trưng của cuộc sống thị dân hiện đại: chi phí điện, nước, điện thoại,...

Mức đóng góp của mỗi bên. Luật hiện hành không có quy định riêng về mức đóng góp của mỗi bên đối với các chi phí nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Có lẽ, bởi vì trước hết các nhu cầu thiết yếu của gia đình được đáp ứng bằng tài sản chung (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 28 khoản 2). Thực ra, tài sản chung dùng để chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của gia đình thuờng là tài sản chung có nguồn gốc từ thu nhập của vợ, chồng. Các tài sản ấy, dù là của chung, cũng có thể được người tạo ra chúng (người có thu nhập) tự mình sử dụng, định đoạt trong chừng mực hợp lý để đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt riêng, mà không cần hỏi ý kiến của vợ (chồng). Ta có thể tự hỏi: liệu người có thu nhập phải bảo đảm việc chi tiêu cho các nhu cầu chung đến mức độ nào bằng thu nhập của mình, thì mới được tự do sử dụng phần còn lại của thu nhập đó cho những nhu cầu riêng ? Một cách hợp lý, thu nhập của một người phải được ưu tiên sử dụng để thanh toán các chi phí nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Mặt khác, vợ chồng chỉ có thể đóng góp thu nhập của mình vào việc xây dựng khối tài sản chung theo sức thu nhập của mình, không thể nhiều hơn. Bởi vậy, có thể tin rằng mức đóng góp của vợ chồng vào việc chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của gia đình cũng phải tương ứng với sức thu nhập đó.

Nếu thu nhập và các tài sản chung khác không đủ để trang trải chi phí, thì sao? Luật nói rằng tài sản riêng của vợ, chồng cũng có thể được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 33 khoản 4). Có thể nghĩ rằng trong khung cảnh của luật thực định, vợ, chồng, trên nguyên tắc, có trách nhiệm đóng góp ngang nhau trong việc thanh toán các chi phí ấy. Tuy nhiên, vấn đề là: khối tài sản riêng của mỗi người thường không ngang nhau. Có lẽ, cũng như trong trường hợp đóng góp vào việc chi tiêu bằng thu nhập, việc đóng góp bằng tài sản riêng cũng được thực hiện dựa theo tình hình tài sản riêng của mỗi người. Nếu một người không có tài sản riêng, thì người còn lại chịu trách nhiệm thanh toán chi phí bằng tài sản riêng của mình.

Đại diện cho nhau

Đại diện trong các giao dịch quan trọng. Các giao dịch quan trọng liên quan đến tài sản chung mà có giá trị lớn và các giao dịch khác mà theo quy định của pháp luật chỉ có thể được xác lập với sự đồng ý của vợ, chồng đều phải do vợ và chồng cùng đứng ra xác lập. Tuy nhiên, vợ, chồng có thể uỷ quyền cho nhau để giao dịch trong các trường hợp ấy (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 24 khoản 1). Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản (cùng điều luật).

Đại diện trong trường hợp một bên mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi. “Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi mà bên kia được Toà án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 24 khoản 2). Ở góc độ quản lý tài sản của gia đình, sẽ không có vấn đề gì đặc biệt một khi vợ hoặc chồng ở trong tình trạng mất năng lực hành vi và người còn lại là người giám hộ: người giám hộ sẽ quản lý tất cả các tài sản của gia đình và sẽ có quyền định đoạt những tài sản quan trọng thuộc khối tài sản chung hoặc khối tài sản riêng của người được giám hộ theo các quy định tại BLDS 2005 Điều 68 và 69. Trái lại, trong trường hợp vợ (chồng) được chỉ định làm người đại diện cho người còn lại, thì sự việc có khả năng trở nên rắc rối: người bị hạn chế năng lực hành vi không mất năng lực hành vi, do đó, người này có quyền bày tỏ ý chí đồng ý hoặc không đồng ý đối với việc nên hay không nên xác lập các giao dịch liên quan đến tài sản, nhất là đến tài sản chung của gia đình. Giả sử cần định đoạt một tài sản mà theo luật phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng; việc người bị hạn chế năng lực hành vi không đồng ý sẽ khiến giao dịch không thể được xác lập, dù chính người này lại không có đầy đủ năng lực để xác lập giao dịch đó.

giữa cha, mẹ và con

giữa cha mẹ và con chịu ảnh hưởng sâu sắc của tôn ti trật tự gia đình và do đó, không có tính hỗ tương toàn diện. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền chăm sóc nuôi dưỡng con và ngược lại, con có nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ. Là một chủ thể của quan hệ pháp luật, con có năng lực pháp luật sở hữu và có quyền có tài sản ngay trong thời gian sống chung với cha mẹ; nhưng cho đến khi con đạt đến một độ tuổi nhất định, các tài sản của con đặt dưới quyền quản lý của cha mẹ. Trái lại, con, với tư cách là “con”, không có quyền hạn gì đối với tài sản của cha mẹ chừng nào cha mẹ còn sống.

Quyền và nghĩa vụ tài sản của cha mẹ đối với con

Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng

Chăm sóc, nuôi dưỡng và cấp dưỡng. Chăm sóc và nuôi dưỡng, cả khi xét ở góc độ thuần tuý nghĩa vụ, là một khái niệm rộng hơn cấp dưỡng. Suy cho cùng, cấp dưỡng chỉ là hình thức biểu hiện vật chất của ý thức đoàn kết giữa các thành viên trong cùng một gia đình, trong điều kiện có một thành viên lâm vào hoàn cảnh sống khó khăn và một thành viên khác có khả năng tài chính để giúp đỡ bằng cách cấp cho thành viên gặp khó khăn một số tiền hoặc hiện vật. Chăm sóc và nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con bao hàm việc tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết, trong phạm vi khả năng của cha mẹ, cho sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của con.

a. Đối tượng của nghĩa vụ

Làm thế nào để người có quyền yêu cầu tồn tại và phát triển. Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, nhìn ở góc độ pháp luật dân sự, có đối tượng là một công việc phải thực hiện. Công việc của người có nghĩa vụ rất phức tạp, nhưng nhìn chung, có thể được phân thành ba nhóm:

- Công việc nuôi dưỡng. Cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm các nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại và nói chung, những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày của con.

- Công việc chăm sóc. Cha mẹ phải bảo đảm các điều kiện sống cần thiết để con không bị ốm đau, bệnh tật và phải chịu các chi phí cần thiết cho việc điều trị bệnh của con.

- Công việc đào tạo. Luật hiện hành chỉ quy định rất chung: “Cha mẹ... chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 37 khoản 1). Trên thực tế, cha mẹ có trách nhiệm thanh toán tất cả các chi phí cần thiết cho việc học hành của con.

Lập nghiệp và lập gia đình? Không có quy định nào của luật viết cho phép con yêu cầu cha mẹ đảm nhận vai trò người bảo trợ vật chất cho các dự án hoạt động nghề nghiệp hoặc xây dựng gia đình của mình. Tục lệ, về phần mình, cũng coi đó là việc mà cha mẹ có thể đảm nhận, nếu muốn, nhưng không có trách nhiệm đảm nhận. Cụ thể, cha mẹ không có nghĩa vụ xuất vốn cho con xây dựng một cơ sở kinh doanh riêng, cho con một số tài sản làm của hồi môn để “ra riêng” sau khi lập gia đình, thậm chí không có trách nhiệm chi phí cho việc tổ chức lễ cưới của con theo tục lệ.

b. Người có quyền yêu cầu

Con. Luật không phân biệt giữa con ruột và con nuôi ở điểm này, cũng không phân biệt con trong giá thú hay con ngoài giá thú, con sống chung với cha mẹ hay sống riêng. Trên cơ sở một quan hệ cha mẹ-con đã được xác lập, người được gọi là con có quyền yêu cầu người được gọi là cha (mẹ) thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với mình. Tất nhiên, trong trường hợp con chưa thành niên, việc thực hiện quyền yêu cầu này có sự hỗ trợ của người đại diện. Lệ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ cha mẹ-con, nghĩa vụ này biến mất một khi quan hệ cha mẹ- con bị chối bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án (trường hợp quan hệ cha mẹ-con ruột) hoặc được chấm dứt theo một bản án hoặc quyết định của Tòa án (trường hợp quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi).

Tuổi tác và khả năng lập thân, lập nghiệp. Trong khung cảnh của luật thực định có vẻ như nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cũng giống nghĩa vụ cấp dưỡng, chấm dứt lúc con đã thành niên và có khả năng lao động. Tuy nhiên, tục lệ gia đình Việt Nam chưa quen với quy tắc này. Nếu, sau khi tốt nghiệp trung học, con thi đỗ vào đại học hoặc được tiếp nhận vào một cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, thì cha mẹ sẽ tiếp tục chăm lo cho con trong việc học cả về vật chất và tinh thần (Thậm chí, nếu con thi trượt mà mong muốn có cơ hội thi lại, thì tục lệ cũng cho rằng cha mẹ có bổn phận tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện kế hoạch thi lại của con, bao gồm cả việc ôn luyện thi.). Nói chung, tục lệ thừa nhận rằng cha mẹ nuôi dưỡng con chừng nào con chưa đủ sức tự lập; tuy nhiên, nếu cha mẹ ngừng trợ cấp sau khi con đã thành niên và có khả năng lao động, thì cả tục lệ và luật đều không phê phán thái độ đó. Cha mẹ cũng có thể trợ cấp nhưng không có nghĩa vụ phải làm việc đó, một khi con đã thành niên, sau một thời gian hoạt động nghề nghiệp và đã có cuộc sống ổn định, lại quyết định ngưng làm việc để theo đuổi một kế hoạch học tập toàn thời gian.

Trường hợp con đã thành niên tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 36 khoản 1, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Có vẻ như khi xây dựng điều luật, về phần liên quan đến con đã thành niên nhưng tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, người làm luật hình dung giả thiết theo đó con rơi vào hoàn cảnh ấy từ lúc còn sống với cha mẹ và do hoàn cảnh ấy mà con không thể lấy vợ (lấy chồng). Nói tóm lại, con rơi vào hoàn cảnh ấy là con độc thân. Thực ra, nếu con đã có vợ (chồng), thì cũng chưa chắc con được vợ (chồng) bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, bởi, như đã biết, nghĩa vụ hỗ trợ vật chất giữa vợ và chồng chưa có cơ sở vững chắc trong khung cảnh của luật viết; còn nghĩa vụ chăm sóc và giúp đỡ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng thì không thể bắt buộc thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế.

Nhấn mạnh rằng các quy tắc trong điều luật được áp dụng cả đối với trường hợp con không nhận thức được hành vi của mình (do bệnh tâm thần hay một bệnh gì đó khác), dù không bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi theo một bản án hoặc quyết định của Toà án.

Con riêng của vợ (chồng). Ta đã biết rằng bố dượng (mẹ kế) cũng có đầy đủ quyền cha mẹ đối với con riêng của vợ (chồng) cùng sống chung với mình; với cùng lý lẽ, luật quy định rằng bố dượng (mẹ kế) có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng đối với con riêng cùng sống chung với mình. Ở góc độ tài sản, mọi chuyện sẽ có thể trở nên tế nhị, bởi con riêng trong trường hợp này sẽ có quyền yêu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng cùng một lúc đối với hai người: cha (mẹ) ruột của mình và chồng (vợ) của mẹ (cha) ruột của mình. Trong những hoàn cảnh nhất định, con riêng có vẻ như được ưu đãi hơn con chung do có được đến hai người có trách nhiệm tài trợ cho việc ăn, mặc, ở, đi lại, học hành của mình.

c. Người có nghĩa vụ

Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa cha và mẹ. Người có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con tất nhiên là cha mẹ. Sự việc có vẻ đơn giản; nhưng, trên thực tế, chỉ đơn giản trong trường hợp cha mẹ và con cùng sống chung dưới một mái nhà và cha mẹ có đăng ký kết hôn. Có thể hình dung các trường hợp sau đây.

- Trường hợp cha mẹ có đăng ký kết hôn và sống chung. Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con thuộc loại nghĩa vụ xác lập, thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Bởi vậy, trong những hoàn cảnh, điều kiện được dự kiến tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 25, cha mẹ có trách nhiệm liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ đó, trong quan hệ với người thứ ba. Việc đóng góp của vợ chồng được thực hiện theo các quy định chung về đóng góp vào việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình.

- Trường hợp cha mẹ có đăng ký kết hôn nhưng sống riêng. Dù sống riêng, cha mẹ vẫn phải liên đới thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, trong quan hệ với người thừ ba, một khi các giao dịch trong khuôn khổ thực hiện nghĩa vụ đó đã được một trong hai người xác lập.

- Trường hợp cha mẹ không có đăng ký kết hôn và sống riêng. Trong trường hợp cha mẹ không đăng ký kết hôn và sống riêng, thì mỗi người vẫn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con, nhưng giữa hai người không thể có tình trạng liên đới về trách nhiệm đối với các giao dịch do một trong hai người xác lập nhằm thực hiện nghĩa vụ đó. Trong quan hệ nội bộ giữa cha và mẹ, việc xác định mức đóng góp của mỗi người trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con có thể được thực hiện theo thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con có thể yêu cầu Toà án buộc người còn lại thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Trường hợp cha mẹ không có đăng ký kết hôn và sống chung. Trên nguyên tắc, nếu cha mẹ không đăng ký kết hôn, thì không được coi là vợ chồng và do đó, không thể bị ràng buộc vào tình trạng liên đới về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con bằng cách áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 25. Tuy nhiên, vấn đề là: khi cùng với cha hoặc mẹ xác lập một giao dịch liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con, người thứ ba hầu như không có quyền yêu cầu cha mẹ xuất trình giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (Ví dụ. Khi cha hoặc mẹ đăng ký cho con vào học ở một trường mẫu giáo, trường không thể yêu cầu cha mẹ chứng minh tư cách vợ chồng hợp pháp của hai người để có thể tin chắc rằng khi cần thu học phí của con, thì trường có thể yêu cầu cha hoặc mẹ như là những người có nghĩa vụ liên đới. ). Một cách hợp lý, ta nói rằng người thứ ba ngay tình có quyền coi như là vợ chồng hợp pháp cha mẹ chung sống không đăng ký kết hôn mà có con sống chung với mình và có quyền yêu cầu cha hoặc mẹ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch liên quan đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng con, như một người có nghĩa vụ liên đới.

d. Thể thức thực hiện nghĩa vụ

Chừng mực vật chất của việc thực hiện nghĩa vụ. Khác với nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với con ràng buộc cha mẹ ngay cả trong trường hợp chính cha mẹ sống trong cảnh thiếu thốn. Thế nhưng cha mẹ chỉ chăm sóc, nuôi dưỡng con theo khả năng của mình, đúng hơn là theo nếp sống bình thường của gia đình: không thể áp đặt cho cha mẹ một tiêu chuẩn sống mà cha mẹ phải bảo đảm cho con.

Trường hợp con sống chung với cha mẹ. Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trong trường hợp con sống chung với cha và mẹ thường được thực hiện cả bằng hiện vật và bằng tiền: cha mẹ mua sắm quần áo, thức ăn, dụng cụ học tập, sinh hoạt, giải trí cho con trong khuôn khổ thực hiện kế hoạch chi tiêu bằng ngân sách chung của cả gia đình; thỉnh thoảng, cha mẹ cho con một ít tiền tiêu vặt trích từ ngân sách chung đó.

Trường hợp con sống riêng. Có hai khả năng: hoặc con sống riêng do cha mẹ có cuộc sống riêng và con theo cha hoặc mẹ; hoặc con tách ra riêng và sống độc lập với cả cha và mẹ. Trong cả hai trường hợp, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng thường được thực hiện dưới hình thức cấp một số tiền, cũng từ ngân sách chung của gia đình, theo định kỳ hoặc theo nhu cầu thiết yếu đột xuất cho cuộc sống của con.

Quyền của cha mẹ đối với tài sản của con

Quyền có tài sản riêng của con. Quyền có tài sản riêng của con chỉ là hệ quả của việc thừa nhận năng lực pháp luật của cá nhân trong lĩnh vực tài sản: ngay từ khi sinh ra, cá nhân đã có thể có quyền sở hữu đối với tài sản. Giải pháp này thể hiện một bước tiến quan trọng của pháp luật gia đình Việt Nam, bởi, trong một thời kỳ dài, con, dù đã thành niên, không có tài sản riêng chừng nào cha mẹ còn sống.

Quyền của cha mẹ đối với tài sản riêng của con. Trên nguyên tắc, quyền sở hữu mang tính độc quyền: người không phải là chủ sở hữu không có quyền gì đối với tài sản của người khác, trừ trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao một hoặc nhiều quyền liên quan đến tài sản. Cá biệt, người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người không có năng lực hành vi và, trong chừng mực nào đó, người bị hạn chế năng lực hành vi chỉ có thể thực hiện quyền sở hữu của mình đối với tài sản thông qua vai trò của người đại diện. Thông thường, khi cần có người đại diện, thì cha mẹ là người đại diện cho con (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 39).

Đối với con dưới 15 tuổi hoặc bị mất năng lực hành vi, việc đại diện của cha mẹ bao hàm cả việc quản lý tài sản của con. “Quản lý”, cha mẹ có cả quyền định đoạt đối với tài sản của con với điều kiện việc định đoạt phải vì lợi ích của con (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 46 khoản 1). Nếu con chưa thành niên đủ 9 tuổi trở lên, thì khi định đoạt tài sản của con, cha mẹ phải tính đến nguyện vọng của con (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 46 khoản 1) ( Luật không đòi hỏi rằng cha mẹ phải được sự đồng ý của con để định đoạt tài sản trong trường hợp này. Hơn nữa, trên thực tế, việc thiết lập bằng chứng về việc cha mẹ đã ghi nhận nguyện vọng của con hoàn toàn không đơn giản. Vả lại, luật cũng không đòi hỏi sự tôn trọng của cha mẹ đối với nguyện vọng ấy. Nếu cha mẹ không tính đến nguyện vọng của con và cuối cùng, định đoạt tài sản trái với lợi ích của con, thì ai có quyền kiện ? ). Nếu con ở trong tình trạng mất năng lực hành vi, thì cha mẹ, với tư cách là người giám hộ đương nhiên ( Cần lưu ý rằng cha mẹ chỉ làm giám hộ đương nhiên cho người thành niên mất năng lực hành vi trong trường hợp người này không có vợ (chồng) hoặc con đủ điều kiện làm giám hộ (BLDS 2005 Điều 62 khoản 3)), chỉ có quyền định đoạt các tài sản có giá trị lớn của con theo các quy định tại BLDS 2005 Điều 69, nghĩa là phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

Quyền thừa kế đối với con. Trong luật hiện hành cha mẹ là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất của con (BLDS 2005 Điều 676 khoản 1 điểm a), đồng thời là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc của con (BLDS 2005 Điều 669).

Quyền và nghĩa vụ tài sản của con đối với cha mẹ

Quyền và nghĩa vụ của con có tài sản riêng. Con chỉ có thể tự mình quản lý tài sản riêng khi đủ 15 tuổi (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 45 khoản 1). Và cũng từ độ tuổi đó, con có quyền tự mình xác lập các giao dịch có tính chất tài sản mà không cần sự đồng ý của cha mẹ, trừ những giao dịch mà pháp luật chỉ cho phép người đã thành niên xác lập (BLDS 2005 Điều 20). Trong mọi trường hợp, khi sử dụng, định đoạt các tài sản của mình, con phải quan tâm đến những hệ quả có thể có của các giao dịch mà mình xác lập đối với đời sống chung của gia đình. Luật nói rằng con từ đủ 15 tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình.(Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 44 khoản 2); nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình (cùng điều luật).

Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của con đối với cha mẹ. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 35, con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Quy tắc này được nhắc lại và được cụ thể hóa tại Điều 36 khoản 2: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con, thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”.

Quyền của con đối với tài sản của cha mẹ. Con không có quyền gì đối với tài sản của cha mẹ, chừng nào cha mẹ còn sống. Cha mẹ già yếu vẫn tự mình quản lý tài sản của mình, tự mình thu và hưởng hoa lợi từ tài sản của mình. Trong trường hợp cha và mẹ mất năng lực hành vi, thì con cả đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ (BLDS 2005 Điều 62 khoản 2); nếu con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ, thì người con tiếp theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ (cùng điều luật). Nếu cha mẹ được đặt dưới chế độ giám hộ và con được giao nhiệm vụ giám hộ, thì con quản lý tài sản của cha mẹ theo các quy định chung về quản lý tài sản của người được giám hộ, bản thân tư cách “con” không làm phát sinh quyền của người mang tư cách đó đối với tài sản của người được giám hộ.

Quyền thừa kế của con đối với di sản của cha mẹ. Trong luật hiện hành, con là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất của cha mẹ. Trong trường hợp cha hoặc mẹ chết không để lại di chúc, thì con được gọi để nhận di sản bên cạnh mẹ hoặc cha còn sống và cha mẹ của người chết (tức là ông bà của con). Thế nhưng, không phải con nào cũng là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc của cha mẹ: trong trường hợp cha, mẹ định đoạt phần lớn tài sản bằng di chúc cho người khác, thì chỉ con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao động và túng thiếu mới được bảo đảm có một phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, trong trường di sản được chia theo pháp luật.

0