24/05/2018, 20:32

Cơ sở thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

Tính tất yếu của việc KVKTNQD tham gia BHXH Xu hướng và mục tiêu phấn đấu của BHXH hiện đại là mục tiêu thực hiện một sự bảo vệ phổ cập và đồng nhất, mở rộng đến toàn thể cộng đồng bằng nhiều chế độ đa dạng. Tiến tới phổ ...

Tính tất yếu của việc KVKTNQD tham gia BHXH

Xu hướng và mục tiêu phấn đấu của BHXH hiện đại là mục tiêu thực hiện một sự bảo vệ phổ cập và đồng nhất, mở rộng đến toàn thể cộng đồng bằng nhiều chế độ đa dạng. Tiến tới phổ cập theo nguyên tắc đoàn kết sâu rộng và nhân ái đối với mọi người, đồng nhất trên cơ sở công bằng xã hội và bình đẳng đối với mọi tầng lớp trong cộng đồng, không phân biệt người làm công ăn lương, công chức nhà nước, người lao động độc lập. Phổ cập và đồng nhất mọi người đều được hưởng quyền con người, được bảo về trước mọi rủi ro và biến cố ngẫu nhiên bất khả kháng trong cuộc sống. Tuy nhiên sự bảo vệ chỉ có thể được thực hiện trên cơ cở kinh tế. Nghĩa là mức độ, phạm vi và quy mô che hắn này phụ thộc vào điều kiện và tiềm lực kinh tế. Nói cách khác, BHXH không thể vượt quá khả năng của nền kinh tế.

Mọi người dều có quyền bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, đều có cơ hội như nhau để vươn lên, đồng thời có nguy cơ gặp phải những bất trắc, những rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống. Vì vậy, hệ thống BHXH cần phải thực hiện sự che chắn xã hội cho mọi công dân trước những biến cố này, những người lao động trong các thành phần kinh tế, đặc biệt là lao động trong KVKTNQD có cống hiến rất lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Đồng thời thực hiện nghĩa vụ đóng góp với Nhà nước. điều này góp phần tăng thêm nguồn tài tài chính để thực hiện các chính sách xã hội, trong đó có chính sách BHXH. Nếu như trước kia, nguồn tài chính BHXH chủ yếu từ ngân cấch Nhà nước và việc thực hiện BHXH là đơn tuyến: Nhà nước - đối tượng, thì nay nguồn tài chính BHXH đã đa dạng hơn và việc thực hiện BHXH được thông qua nhiều kênh khác nhau như Nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội các đoàn thể, cộng đồng, cá nhân, quốc tế... Như vậy, lưới an toàn xã hội sẽ có nhiều tầng khác nhau, đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của các đối tượng khác nhau trong xã hội.

Cũng như các khu vực kinh tế khác, KVKTNQD có mối quan hệ gữa người sử dụng lao động và người lao động nên cần có sự can thiệp của Nhà nước thông qua chính sách của BHXH để đảm bảo và hài hòa lợi ích của hai bên. Thêm vào đó, KVKTNQD cũng phảu được bình dẳng với các khu vực kinh tế khác về các chính sách, pháp luật. Do đó, khu vực này cũng phải được hưởng các quyền lợi do chính sách BHXH mang lại cũng như phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, KVKTNQD ngày càng phát triển. ở các nước, KVKTNQD là khu vực kinh tế chủ yếu nên việc tham gia BHXH của khu vực này là tất yéu. Mọi đối tượng trong xã hội đều được tham gia theo các hình thức bắt buộc và tự nguyện. Đối với loại hình bắt buộc thì các chủ sử dụng có từ 1 lao động trở lên, còn đối với đối tượng tự nguyện là những người lao động tự do.

ở nước ta trong một thời gian dài, do điều kiện kinh tế còn hạn chế, lại phải trải qua chiến tranh kéo dài nên BHXH mới được thực hiện cho một bộ phận dân cư là công nhân viên chức nhà nước, quân đội và những người có công trong hai cuộc chiến tranh. Đến nay, trong bối cảnh mới, nền kinh tế đất nước đã có những nét khởi sắc. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam đã từng bước vươn lên, đời sống dân cư có những cải thiện đáng kể, nhiều người dân đã có tích lũy. Trong bối cảnh đó, BHXH có điều kiện để mở rộng đối tượng, phạm vi và mức độ mới từ nhiều nguồn ( Nhà nước, doanh nghiệp , cá nhân).

Trong những năm gần đây, KVKTNQD ở nước ta có tốc độ phát triển rất nhanh và nhiều tiềm năng, huy động ngày càng nhiều lao động mới và lao động dôi dư từ quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, tỷ trọng lao động thuộc khu vực này trong tổng lao động xã hội ngày càng tăng trong khi tỷ trọng tương ứng của khu vực Nhà nước ngày càng có xu hướng giảm. Do đó, nhu cầu, khả năng và điều kiện tham gia BHXH của khu vực này sẽ ngày càng lớn.

Vì vậy, khai thác lao động thuộc khu vực KTNQD tham gia BHXH sẽ làm tăng tỷ trọng lao động xã hội tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Một mặt làm tăng trưởng và phát triển quỹ BHXH; mặt khác bảo đảm quyền lợi cho người lao động, nhất là với tình trạng ngày càng nhiều ngăời sử dụng lao động trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Thêm vào đó, người lao động và người sử dụng lao động lao động ở KVKTNQD tham gia BHXH thực chất là làm cho đối tượng tham gia BHXH được mở rộng. Đây là một định hướng đúng của ngành BHXH và của Nhà nước ta trong những năm gần đây và trong tương lai. Điều đó góp phần thực hiện nguyên tắc số đông bù số ít của BHXH.

Mặt khác, số người tham gia BHXH ở nước ta hiện nay còn quá ít, tỷ lệ số lao động được tham gia BHXH chưa được 20% trong tổng số lao động của cả nước (theo báo cáo tổng kết công tác năm 2003 của BHXH Việt Nam thì đến ngày 31/12/2004 mới chỉ có 7.561.242 người lao động trong tổng số khoảng 54.3 triệu lao động độ tuổi lao động của cả nước được tham gia BHXH). Tỷ lệ này quá thấp so với nhiều nước trên thế giới (Malaysia 90%, Đức 95%, Mỹ 95%). Như vậy còn khoảng 85% số lao động chưa được tham gia BHXH trong đó chủ yếu là người lao động ở khu vục kinh tế Ngoài quốc doanh. Như vậy, nước ta còn tồn tại một số lượng lao động rất lớn chưa tham gia BHXH. Trong khi đó theo dự báo của cơ quan BHXH Việt Nam thì khoảng năm 2022 số chi BHXH, sẽ bằng số thu BHXH trong năm. Trong những năm tiếp theo thu không đủ chi và phải sử dụng tới quỹ BHXH tồn tích các năm trước để chi trả. Dự báo vào khoảng năm 2030 thì quỹ BHXH không còn khả năng chi trả. Vì vậy một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải điều chỉnh chính sách BHXH cho phù hợp với những biến động sắp diễn mà trong đó công tác tăng cường mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH phải được dặt lên hàng đầu. Do đó việc tăng cường thực hiện BHXH cho lao động khu vục kinh tế Ngoài quốc doanh là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với chủ trương mở rộng đối tượng tham gia BHXH của Nhà nước.

Ngoài ra, khi cơ chế quản lý kinh tế thay đổi, BHXH không còn là sự đãi ngộ của Nhà nước mà dựa vào sự đóng góp cho người lao động. Do vậy tham gia BHXH là trách nhiệm của người lao động đối với chính cuộc sống của mình và cũng là thực hiện một nghĩa vụ trước pháp luật.

Nhu cầu tham gia BHXH của người lao động ở khu vục kinh tế Ngoài quốc doanh rất cấp thiết. Trong khi đó, đối tượng tham gia BHXH còn bị hạn chế bó hẹp, chính sách BHXH tự nguyện chưa được ban hành nên hạn chế sự tham gia của rất nhiều người lao động ở khu vục kinh tế Ngoài quốc doanh. Vì vậy, việc thực hiện BHXH cho người lao động ở khu vực này không chỉ là chủ trương của Nhà nước mà còn đáp ứng nhu cầu được tham gia BHXH của người lao động.

Trong những năm qua khu vục kinh tế NQD phát triển không ngừng với tốc độ tăng trưởng cao. Theo kết quả tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp của Tổng cục thống kê, tính đến ngày 01/07/2002 cả nước có 49.492 doanh nghiệp ngoài Ngân sách Nhà nước, tăng 188,7% so với năm 1995; thu hút 1.397.917 lao động, tăng 225% so với năm 1995 (bình quân mỗi doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng 28,2 lao động ). Trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm 58,76%, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68, công ty cổ phần 2,55%, công ty hợp danh 0,01%, điều này chứng tỏ khu vục kinh tế ngoài quốc doanh đang trên đà phát triển rất nhanh và thu hút một số lượng lớn người lao động trong cả nước tham gia.

Qua thực tiễn triển khai BHXH cho người lao động ở khu vục kinh tế Ngoài quốc doanh trong những năm qua cho thấy người lao động rất hoan nghênh và cho rằng chính sách BHXH đối với người lao động ở khu vực này là chính sách thiết thực, bình đẳng, đáp ứng nhu cầu của người lao động và phù hợp với tình hình đổi mới nền kinh tế xã hội của đất nước ta. Vì vậy việc tiến hành thực hiện BHXH cho người lao động ở khu vực này là hết sức cần thiết và thiết thực.

Những căn cứ pháp lý để thực hiện BHXH cho KVKTNQD

Các văn bản pháp quy sau là cơ sở pháp lý để thực hiện BHXH cho KVKTNQD:

- Văn bản số 2251/PPLT ngày 29/11/1989 của Văn phòng Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ), Bộ Lao Động- Thương Binh và Xã Hội đã chỉ đạo việc tổ chức thí điểm BHXH cho người lao động thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ở 5 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Hoàng Liên Sơn Thành phố Hồ Chí Minh (sau này có thêm Bà Rịa- Vũng Tàu).

- Đến năm 1991 trong Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ “đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp vào quỹ BHXH. Từng bước tách quỹ BHXH đối với công nhân viên chức khỏi Ngân sách Nhà nước và hình thành quỹ BHXH chung cho mọi người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế”.

- Nghị định số 43/CP ngày 1/1/1993 của Chính phủ nhằm thống nhất BHXH vào một mối áp dụng chung cho mọi thành phần kinh tế.

- Ngày 23/6/1994 Bộ Luật Lao Động đã được Quốc hội thông qua trong đó có quy định “loại hình tham gia BHXH áp dụng đối với doanh nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Ở những doanh nghiệp này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng BHXH theo quy định...”; “người lao động làm việc ở những nơi sử dụng lao động dưới 10 lao động hoặc làm những công việc có thời hạn dưới 3 tháng, theo mùa vụ hoặc làm các cộng việc tạm thời khác, thì các khoản BHXH được tính vào tiền lương do người sử dụng lao động trả để người lao động tham gia BHXH theo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về bảo hiểm”. Đồng thời Bộ luật cũng xác định: Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH, thành lập hệ thống tổ chức BHXH.

- Ngày 26/01/1995 Chính phủ có NĐ 12/CP ban hành Điều lệ BHXH để cụ thể hoá những nội dung về BHXH đã được quy trong Bộ luật lao động, trong có quy định “người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc”.

- Ngày 16/02/1995 Chính phủ ban hành NĐ 19/CP thống nhất các tổ chức BHXH thuộc hệ thống Lao Động- Thương Binh và Xã Hội và Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam thành BHXH Việt Nam với hệ thống dọc ba cấp từ Trung ương đến tỉnh, thành phố và quận, huyện; có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chính sách BHXH theo quy định của pháp luật.

- Ngày 04/04/1995 Bộ Lao Động- Thương Binh Xã Hội có thông tư số 06/LĐTBXH- TT hướng dẫn thi hành một số điều để thực hiện Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 21/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ trong đó có quy định các đơn vị ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

- Chỉ thị số 15/CT- TƯ ngày 26/05/1997 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về “tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH trong đó nhấn mạnh việc tập trung chỉ đạo, phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động nhằm đảm bảo thực hiện tốt Điều lệ BHXH đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh”.

- Quyết định số 20/2002/QĐ- TTg ngày 24/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển giao BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam, theo đó BHXH Việt Nam là cơ quan thực hiện các chế độ, chính sách BHXH trong đó có BHYT. Do vậy đối tượng tham gia BHXH ở khu vục kinh tế Ngoài quốc doanh bao gồm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và BHYT bắt buộc.

- Ngày 02/04/2002 Luật lao động sửa đổi, bổ sung một số điều được Quốc hội thông qua, chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 12/04/2002 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2003 đã mở rộng việc tham gia BHXH bắt buộc được áp dụng đối với doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn (không khống chế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên)

- Ngày 02/01/2003 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 02/2003/QĐ- TTg về việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam trong đó có quy định hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm đóng đầy đủ, kịp thời vào quỹ BHXH, ngay sau khi thanh toán tiền lương hàng tháng cho người lao động. Và trường hợp chậm nộp BHXH từ 30 ngày trở lên so với quy định, thì ngoài việc phải nộp số tiền chậm nộp và nộp phạt hành chính theo quy định hiện hành, còn phải nộp số tiền phạt chậm nộp theo mức lãi suất tiền vay quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm truy nộp. Đối với những đơn vị cố tình vi phạm hoặc chây ỳ thì cơ quan BHXH được quyền đề nghị Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng nơi đơn vị giao dịch trích tiền từ tài khoản của đơn vị để nộp đủ tiền đóng BHXH và tiền phạt chậm nộp mà không cần có sự chấp thuận thanh toán của đơn vị sử dụng lao động.

- Ngày 09/01/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ- CP sữa đổi bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH , đã mở rộng phạm vi và đối tượng người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở nên và hợp đồng không xác định thời hạn trong các hoạt động theo luật doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác xã; các tổ chức khác có sử dụng lao động.

- Ngày 16/05/2003 Bộ tài chính có Thông tư số 49/2003/TT- BTC hướng dẫn Quyết định số 02/2003/QĐ- TTg về quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc phạt các đơn vị sử dụng lao động không chịu tham gia BHXH bắt buộc theo luật định.

0