24/05/2018, 20:32

Quá trình hình thành và phát triển của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA )

Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 7 của hiệp hội các nước Đông nam á ASEAN. Sự kiện trọng đại này đánh dấu một thành công to lớn của chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam, đánh đấu một bước phát triển mới ...

Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 7 của hiệp hội các nước Đông nam á ASEAN. Sự kiện trọng đại này đánh dấu một thành công to lớn của chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam, đánh đấu một bước phát triển mới trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế và liên kết kinh tế quốc tế.

Với 7 thành viên và với số dân 430 triệu người, diện tích 3,5 triệu km2, thu nhập bình quân đầu người là 1680 USD. ASEAN là cửu ngõ của Đông Nam á, là nơi hội tụ các giao lưu kinh tế quốc tế và đang trở thành khu vực phát triển năng động nhất của châu á cũng như trên toàn thế giới.

Kể từ ngày 1/1/1993 các nước ASEAN cùng nhau thoả thuận cùng nhau xây dựng khối mậu dịch tự do ASEAN- AFTA một thị trường chung rộng lớn trong long Đông nam á. Đặc biệt là chương trình ưu đãi thuế quan hữu hiệu chung( CEPT ), thực hiện giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan trong khoảng thời gian lúc đầu dự định là 15 năm sau đó rút xuống 109 năm bắt đầu từ 1/1/1993 có ý nghĩa quan trọng và tác động sâu sắc đến nền kinh tế mỗi quốc gia. Mục tiêu của chương trình này là đến năm 2003 giảm thuế quan đối với các hàng hoá sản xuất trong nội bộ khối xuống tới mức 0-5%. Hội nghị cấp cao của ASEAN lần thứ 5 vừa qua đã đề ra yêu cầu cố gắng hoàn thành mục tiêu vào năm 2000. Thực hiện được điều đó AFTA sẽ góp phần tích cực vào việc tăng cường khả năng canh tranh của ASEAN trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài và ngược lại, củng cố và thúc đẩy tiến trình nhất thể hoá trong khu vực và đưa tới sự phát triển năng động hơn nữa của mỗi thành viên, điều này hoàn toàn phù hợp với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới cả trên cấp độ toàn cầu và trên cấp độ khu vực.

ATFA ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các nước. Tuy thế, sự ra đời của AFTA cũng là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các nhân tố bên trong và bên ngoài sau :

  • Về nhân tố bên trong : Do Sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá trong hai thập kỷ qua đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán lẫn nhau giữa các nền kinh tế ASEAN. Vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội địa của những nhóm nước này đã tăng khoảng 20%, chẳng hạn vào năm 1980 hàng chế tạo của Singapo chỉ chiếm 15,3% trong tổng số hàng xuất khẩu nội bộ của ASEAN thì đến năm 1990 đã tăng lên 60,2%, cùng lúc đó Inđônêsia cũng tăng từ 13,3% lên đến 46,6%, Thái Lan từ 29,1% tăng lên 48,3%... có thể nói nền kinh tế của các nước ASEAN có tính hướng ngoại và đang rất cần tìm kiếm thị trường xuất khẩu . Điều này càng được thúc đẩy nhanh hơn nhờ sự tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế khu vực đối với các chiến lược phi điều chỉnh và biện pháp tự do hoá thương mại. Chính phủ các nước ASEAN cũng nhận thấy rõ sự trở ngại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lược phát triển và đi đến đề xuất một khu vực mậu dịch tự do hoá thương mại giữa các nước thành viên một cách có hiệu quả.
  • Về nhân tố bên ngoài, Do sự chuyển đổi sang kinh tế thị trường của nhiều nước trên thế giới tiêu biểu như: Trung Quốc, các nước Đông Âu, làm cho các quốc gia ASEAN ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và cạnh tranh thương mại. Do sự cạnh tranh của nhiều tổ chức hợp tác của các khu vực như EU, NAFTA. Nói cách khác, sức ép của chủ nghĩa khu vực cùng sự xuất hiện của các khối EU, NAFTA và nhiều yếu tố làm giảm đi lợi thế cạnh tranh của các nước ASEAN đòi hỏi các nước ASEAN phải có sự thống nhất để đi đến những biện pháp thúc đẩy nhanh chóng buôn bán nội bộ và tự do hoá quan hệ thương mại giữa khu vực với các khối liên minh kinh tế khác.

AFTA(ASEAN Free Trade Area) là diễn đàn hợp tác kinh tế quan trọng và đáng chú ý nhất của ASEAN, được thành lập tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore theo sáng kiến của ThaiLand, Tháng 2 năm 1992. Khu vực mậu dịch tự do AFTA chỉ gồm có những thành viên của hiệp hội các nước Đông nam á (ASEAN), 7 thành viên của AFTA là : Singapore, ThaiLand, Philipine, Malaysia, Indonesia, Brunei, Việt Nam. Khu vực mậu dịch tự do AFTA lớn hơn khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA ) và liên minh châu Âu(EU) về số dân và diện tích nhưng thấp hơn về thu nhập bình quân đầu người từ 10-15 lần.

Khu vực mậu dịch tự do AFTA là nơi thu hút sự chú ý của các liên minh kinh tế thế giới, các công ty, các tập đoàn đa quốc gia cũng như cả cộng đồng quốc tế, AFTA sẽ là khối mậu dịch "hạt nhân" của diễn đàn hợp tác kinh tế châu á thái bình dương ( APEC), AFTA có một vị trí quan trọng với những mục tiêu sau đây

  • Thực hiện tự do hoá Thương Mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ khu vực.
  • Thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào ASEAN bằng cách tạo dựng ASEAN thành một thị trường thống nhấtvà hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
  • Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là phát triển trong xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu.

Thông qua việc thành lập AFTA các nước ASEAN muốn tạo ra một thị trường mà trong đó :

  • Một hàng rào thuế quan được xoá bỏ.
  • Thuế suất đánh vào các mặt hàng xuất nhập khẩu chỉ từ 0-5%.
  • Phương thức để tiến hành giảm thuế là chương trình CEPT.

Tóm lại, AFTA ra đời đã trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do hoá thương mại rộng lớn hơn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA cho ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng mới cho sự phát triển của ASEAN trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hoá. AFTA sẽ làm tăng khối lượng buôn bán trong nội bộ ASEAN cũng như giữa các nước ASEAN với các nước ngoài khu vực. Theo nghiên cứu của một nhóm chuyên gia do ASC chỉ định thì AFTA có thể sẽ làm cho tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước ASEAN sẽ tăng từ 1,5% ( Đối với Singapore) đến 5%( Đối với TháiLand) và tronng khoảng 1,5 -5% đối với các nước khác.

AFTA có các nội dung chính sau :

  1. Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT).
  2. Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên
  3. Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau.
  4. Xoá bỏ những qui định hạn chế đối với ngoại thương.
  5. Tiến hành hoạt động tư vấn vĩ mô.

Trong những yếu tố trên CEPT được coi là yếu tố cốt lõi vì thông qua việc giảm thuế quan, dỡ bỏ dần các hàng rào phi thuế quan...người ta sẽ xác lập được nền thương mại tự do trong nội bộ khối.

Không phải tới thời điển này, nhu cầu liên kết kinh tế trong lĩnh vực thương mại của ASEAN mới được đặt ra. Trước đó, từ năm 1997, một chương trình nhằm thúc đẩy mậu dịch giữa các nước thành viên đã được đưa vào thực hiện với thoả thuận ưu đãi thương mại (Preferentoal Trading Arrangements-PTA). Khác với PTA, quan hệ thương mại ASEAN theo CEPT trong môi trường các hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần được loại bỏ hoàn toàn.

Những quy định chung của CEPT.

  • Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT ) được ký kết giữa các nước ASEAN năm 1992 là cơ chế chính để thực hiện AFTA. Mục tiêu của CEPT là giảm mức thuế quan trong Thương Mại nội bộ ASEAN xuống còn 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan.
  • CEPT áp dụng với sản phẩm chế tạo, kể cả sản phẩm cơ bản và sản phẩm nông sản. Tuy nhiên, chỉ có những sản phẩm có ít nhất 40% giá trị xuất sứ của ASEAN (của riêng một nước hoặc nhiều nước ASEAN cộng lại) và phải là các sản phẩm được đưa vào danh mục được giảm thuế và được hội đồng AFTA xác nhận

Các sản phẩm được đưa vào chương trình cắt giảm thuế gồm 4 khoản mục :

  1. Danh mục các xản phẩm với tiến trình giảm nhanh và giảm thường(IL)
  2. Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế(TEL)
  3. Danh mục hàng nông sản chưa qua chế biến. Nhạy cảm (UAPS)
  4. Danh mục loại trừ hoàn thành ( EL ).

Theo CEPT, tiến trình cắt giảm được quy định cụ thể cho các sản phẩm trong từng danh mục trừ các sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn là những sản phẩm không thuộc diện cắt giảm thuế quan( gồm các sản phẩm có ảnh hưởng tới an ninh, quốc phòng và an toàn xã hội chiếm dưới 5% tổng số mã thuế của ASEAN ).

Tiến trình cắt giảm bình thường của các sản phẩm thuộc danh mục cắt giảm các thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống còn 20% vào 1/1/1998 và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm có thuế suất dưới 20% sẽ được giảm xuống 0-5% vào 1/1/2000. Đối với tiến trình nhanh, các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm 0-5% vào 1/1/2000, các sản phẩm có thuế suất dưới 20% sẽ được giảm xuống 0-5% vào 1/1/1998. Các sản phẩm nông sản chưa qua chế biến thuộc danh mục cắt giảm ngay sẽ bắt đầu được cắt giảm từ 1/1/1996 đến 1/1/2003 sẽ có mức thuế suất 0-5%. Các sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời cũng được chuyển sang danh mục cắt giảm ( mỗi năm 20% sản phẩm). Để giảm thuế trong vòng 5 năm từ 1/1/1996 đến 1/1/2000. thời hạn chuyển sang danh mục cắt giảm đối với các sản phẩm nông sản chưa chế biến thuộc danh mục TEL là từ 1/1/1998 đến 1/1/2003 mỗi năm 20%.

Tuy nhiên, mỗi nước có thể giảm thuế trong những thời gian khác nhau. Nhưng thời điểm hoàn thành thuế là 1/1/2003.

Các sản phẩm nông sản chưa qua chế biến thuộc danh mục nhạy cảm sẽ được xenm xét riêng và bắt đầu cắt giảm từ 1/1/2001 hoặc chậm nhất là 1/1/2003 với mức thuế cuối cùng là 0-5% trừ một số mặt hàng nông sản được coi là nhạy cảm cao chưa thống nhất được giữa các nước ASEAN.

Tuy nhiên sau một số năm thực hiện CEPT, các nước thành viên ASEAN đã đề xuất ra một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là các nước không nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến với các quy trình rạch ròi cho các thuế suất cần cắt giảm qua từng thời kỳ mà có thể tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế của nước mình để xây dựng lịch trình cắt giảm thuế thích hợp, miễn sao giảm nhanh thuế quan xuống còn 0-5% trước năm 2003, sớm hơn càng tốt. Hiện nay, Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề xuất đó như một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu về việc tạo dựng một khu vực tự do hoá thương mại ASEAN trước thời hạn. Trên cơ sở phân tích cơ cấu các Danh mục, tại Hội đồng AFTA lần thứ 8, các nước ASEAN đã khuyến nghị việc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình thực hiện AFTA bằng cách mở rộng các mặt hàng chịu thuế có thuế suất từ 0-5% vào năm 2003 và tối đa hoá số các mặt hàng có thuế suất giảm tới 0% vào năm 2003.

Khi vận dụng CEPT, chúng ta không được quên điều kiện bổ sung cho cơ chế giảm thuế theo CEPT. Đó là các ưu đãi theo CEPT giữa các quốc gia ASEAN sẽ được trao đổi trên nguyên tắc có đi có lại. Muốn được hưởng nhượng bộ về thuế quan khi xuất khẩu hàng hoá trong khối, một sản phẩm cần có các điều kiện sau:

  • Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan nhập khẩu nhỏ hơn hoặc bằng 20%.
  • Sản phẩm đó phải có trong chương trình giảm thuế quan được Hội đồng AFTA thông qua.
  • Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả mãn yêu cầu hàm lượng suất xứ từ các nước thành viên ASEAN ít nhất là 40%.

Công thức tính hàm lượng ASEAN như sau:

Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ các nước không phải là thành viên ASEAN tính theo gía CIF tại thời điểm nhập khẩu.

Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận các sản phẩm là đầu vào không xác định được xuất xứ tính theo giá bắt đầu trước khi đưa vào chế biến trên lãnh thổ của nước xuất khẩu là thành viên của ASEAN.

Nếu một sản phẩm có đủ cả ba điều kiện trên sẽ được hưởng mọi ưu đãi mà quốc gia nhập khẩu đưa ra (sản phẩm được sử dụng ưu đãi hoàn toàn). Nếu sản phẩm thoả mãn các yêu cầu trên trừ việc có mức thuế nhập khẩu bằng hoặc thấp hơn 20% (tức là sản phẩm đó có thuế suất 20%) thì sản phẩm đó chỉ được hưởng thuế suất CEPT cao hơn 20% trước đó hoặc thuế suất MFN, tuỳ thuộc thuế suất nào nhỏ hơn.

Các điều kiện trên đưa ra nhằm đảm bảo sự bình đẳng hợp lý về cơ hội tiếp cận thương mại giữa các nhà sản xuất đang cạnh tranh trong các quốc gia ASEAN. Chúng cũng góp phần khuyến khích các quốc gia nhanh chóng đưa các sản phẩm vào Danh mục giảm thuế. Các sản phẩm thuộc Danh mục giảm thuế theo CEPT và các sản phẩm đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan cuả các nước trên khác sẽ được ghi rõ trong tài liệu hướng dẫn trao đổi nhượng bộ theo CEPT (CCEM) xuất bản hàng năm của mỗi nước.

0