25/05/2018, 07:32

Cơ bản về bảo mật

Những nguy cơ bảo mật đe dọa mất mát dữ liệu nhạy cảm luôn là mối lo ngại của những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau đây là 10 nguy cơ bảo mật được đánh giá là nguy hiểm nhất mà doanh nghiệp phải đối mặt. ...

Những nguy cơ bảo mật đe dọa mất mát dữ liệu nhạy cảm luôn là mối lo ngại của những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau đây là 10 nguy cơ bảo mật được đánh giá là nguy hiểm nhất mà doanh nghiệp phải đối mặt.

Những nhân viên bất mãn với công ty

Trong một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, những dữ liệu kinh doanh quan trọng hay thông tin khách hàng thường được giao phó cho một cá nhân. Điều này tạo nên tình trạng "lệ thuộc quyền hạn" nguy hiểm. Khi cá nhân đó bất mã vì một lý do nào đó với công ty và ban điều hành công ty. Lúc này vấn đề chỉ còn là thời gian và quyền hạn kiểm soát thông tin của anh ta mà thôi.

Không có kế hoạch xử lý rủi ro

Hệ thống máy tính, mạng của doanh nghiệp luôn phải đối mặt với nhiều nguy cơ bảo mật, từ việc hư hỏng vật lý cho đến các trường hợp bị tấn công từ tin tặc hay virus đều có khả năng gây tổn hại cho dữ liệu. Khá nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu hẳn chính sách phản ứng với việc thất thoát dữ liệu hay kế hoạch khắc phục sự cố. Đại đa số đều lúng túng và bắt đầu các hoạt động mang tính ứng phó.

Những thiết lập mặc định không được thay đổi

Tin tặc hiện nay thường dùng các tập tin chứa đựng hàng trăm ngàn tài khoản mặc định (username và password) của các thiết bị kết nối mạng để dò tìm quyền hạn truy xuất khả năng đăng nhập vào hệ thống mạng. Nếu các tài khoản, thiết lập mặc định không được thay đổi, tin tặc sẽ dễ dàng chiếm quyền điểu khiển tài nguyên mạng.

Môi trường mạng tại gia không an toàn

Đối với một vài doanh nghiệp nhỏ, các nhân viên thường đem máy tính xách tay (laptop) của mình đến văn phòng để làm việc. Trong môi trường mạng tại gia đình, chế độ bảo mật thường rất kém hay thậm chí không có những thiết lập bảo vệ. Do đó, những chiếc laptop của nhân viên có thể là nguồn gốc phát tán virus, malware hay trở thành zombie trung gian để tin tặc tấn công vào hệ thống mạng của doanh nghiệp.

Thiếu cảnh giác với mạng công cộng

Một thủ đoạn chung tin tặc hay sử dụng để dẫn dụ những nạn nhân là đặt một thiết bị trung chuyển wireless access-point không cài đặt mật khẩu (unsecured) rồi gán một cái nhãn như "Mạng Wi-Fi miễn phí" và rung đùi ngồi chờ những kết nối "ngây thơ" rơi vào bẫy. Tin tặc sẽ dùng các công cụ thâu tóm gói dữ liệu mạng giúp nhận biết cả những văn bản hay bất kỳ những gì mà nhân viên doanh nghiệp gõ rồi gửi ra ngoài.

Mất mát thiết bị di động

Rất nhiều doanh nghiệp, thậm chí gần đây còn có cả một vài hãng lớn bị thất thoát dữ liệu quan trọng do mất cắp máy tính xách tay, thất lạc điện thoại di động hay các đĩa flash USB lưu trữ. Dữ liệu trong các thiết bị này thường ít được mã hóa hay bảo vệ bằng mật khẩu, rất dễ dàng xử lý một khi đã sở hữu chúng.

Lỗi từ máy chủ web

Hiện còn khá nhiều doanh nghiệp không coi trọng việc đặt website của mình tại máy chủ nào, mức độ bảo mật ra sao. Do đó, website kinh doanh của doanh nghiệp sẽ là mồi ngon của các đợt tấn công SQL Injection hay botnet.

Duyệt web tràn lan

Không phải nhân viên văn phòng nào cũng đủ am hiểu tường tận về những hiểm họa rình rập trên mạng Internet như malware, spyware, virus, trojan... Họ cứ vô tư truy cập vào các website không xác định hoặc bị dẫn dụ click vào những website được tin tặc bày cỗ chào đón và thế là máy tính của nhân viên sẽ là cánh cửa giúp tin tặc xâm nhập vào trong mạng của doanh nghiệp.

Email chứa đựng mã độc

Những cuộc giội bom thư rác sẽ làm tràn ngập hộp thư của bạn với những tiêu đề hấp dẫn như những vụ scandal tình ái, hình ảnh nóng bỏng hay các lời mời chào kinh doanh... chỉ một cú nhấp chuột sai lầm thì ngay lập tức máy tính sẽ tải về các đoạn mã độc làm tiền đề cho hàng loạt phần mềm độc hại đi sau xâm nhập vào máy tính.

Không vá lỗi bảo mật

Hơn 90% các cuộc tấn công vào hệ thống mạng đều cố gắng khai thác các lỗi bảo mật đã được biết đến. Mặc dù các bản vá lỗi vẫn thường xuyên được những hãng sản xuất cung cấp ngay sau khi lỗi được phát hiện nhưng một vài doanh nghiệp lại không coi trọng việc cập nhật lỗi thường nhật dẫn đến việc các lỗi bảo mật mở toang cổng chào đón những cuộc tấn công.

Viruses, Worms, Trojan Horses.

Trong khoa học máy tính, virus máy tính (thường được người sử dụng gọi tắt là virus) là những chương trình hay đoạn mã được thiết kế để tự nhân bản và sao chép chính nó vào các đối tượng lây nhiễm khác (file, ổ đĩa, máy tính ..).

Trước đây, virus thường được viết bởi một số người am hiểu về lập trình muốn chứng tỏ khả năng của mình nên thường virus có các hành động như: cho một chương trình không hoạt động đúng, xóa dữ liệu, làm hỏng ổ cứng,... hoặc gây ra những trò đùa khó chịu.

Những virus mới được viết trong thời gian gần đây không còn thực hiện các trò đùa hay sự phá hoại đối máy tính của nạn nhân bị lây nhiễm nữa, mà đa phần hướng đến việc lấy cắp các thông tin cá nhân nhạy cảm (các mã số thẻ tín dụng) mở cửa sau cho tin tặc đột nhập chiếm quyền điều khiển hoặc các hành động khác nhằm có lợi cho người phát tán virus.

Chiếm trên 90% số virus đã được phát hiện là nhắm vào hệ thống sử dụng hệ điều hành họ Windows chỉ đơn giản bởi hệ điều hành này được sử dụng nhiều nhất trên thến giới. Do tính thông dụng của Windows nên các tin tặc thường tập trung hướng vào chúng nhiều hơn là các hệ điều hành khác. (Cũng có quan điểm cho rằng Windows có tính bảo mật không tốt bằng các hệ điều hành khác (như Linux) nên có nhiều virus hơn, tuy nhiên nếu các hệ điều hành khác cũng thông dụng như Windows hoặc thị phần các hệ điều hành ngang bằng nhau thì cũng lượng virus xuất hiện có lẽ cũng tương đương nhau).

Lược sử của virus

Có nhiều quan điểm khác nhau về lịch sử của virus điện toán. Ở đây chỉ nêu rất vắn tắt và khái quát những điểm chung nhất và, qua đó, chúng ta có thể hiểu chi tiết hơn về các loại virus:

  • Năm 1949: John von Neuman (1903-1957) phát triển nền tảng lý thuyết tự nhân bản của một chương trình cho máy tính.
  • Vào cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970 đã xuất hiện trên các máy Univax 1108 một chương trình gọi là "Pervading Animal" tự nó có thể nối với phần sau của các tập tin tự hành. Lúc đó chưa có khái niệm virus.
  • Năm 1981: Các virus đầu tiên xuất hiện trong hệ điều hành của máy tính Apple II.
  • Năm 1983: Tại Đại Học miền Nam California, tại Hoa Kỳ, Fred Cohen lần đầu đưa ra khái niệm computer virus như định nghĩa ngày nay.
  • Năm 1986: Virus "the Brain", virus cho máy tính cá nhân (PC) đầu tiên, được tạo ra tại Pakistan bởi Basit và Amjad. Chương trình này nằm trong phần khởi động (boot sector) của một dĩa mềm 360Kb và nó sẽ lây nhiễm tất cả các ổ dĩa mềm. Đây là loại "stealth virus" đầu tiên.
  • Cũng trong tháng 12 năm này, virus cho DOS được khám phá ra là virus "VirDem". Nó có khả năng tự chép mã của mình vào các tệp tự thi hành (executable file) và phá hoại các máy tính VAX/VMS.
  • Năm 1987: Virus đầu tiên tấn công vào command.com là virus "Lehigh".
  • Năm 1988: Virus Jerusalem tấn công đồng loạt các đại học và các công ty trong các quốc gia vào ngày thứ Sáu 13. Đây là loại virus hoạt động theo đồng hồ của máy tính (giống bom nổ chậm cài hàng loạt cho cùng một thời điểm).
  • Tháng 11 cùng năm, Robert Morris, 22 tuổi, chế ra worm chiếm cứ các máy tính của ARPANET, làm liệt khoảng 6.000 máy. Morris bị phạt tù 3 năm và 10.000 dollar. Mặc dù vậy anh ta khai rằng chế ra virus vì "chán đời" (boresome).
  • Năm 1990: Chương trình thương mại chống virus đầu tiên ra đời bởi Norton.
  • Năm 1991: Virus đa hình (polymorphic virus) ra đời đầu tiên là virus "Tequilla". Loại này biết tự thay đổi hình thức của nó, gây ra sự khó khăn cho các chương trình chống virus.
  • Năm 1994: Những người thiếu kinh nghiệm, vì lòng tốt đã chuyển cho nhau một điện thư cảnh báo tất cả mọi người không mở tất cả những điện thư có cụm từ "Good Times" trong dòng bị chú (subject line) của chúng. Đây là một loại virus giả (hoax virus) đầu tiên xuất hiện trên các điện thư và lợi dụng vào "tinh thần trách nhiệm" của các người nhận được điện thư này để tạo ra sự luân chuyển.
  • Năm 1995: Virus văn bản (macro virus) đầu tiên xuất hiện trong các mã macro trong các tệp của Word và lan truyền qua rất nhiều máy. Loại virus này có thể làm hư hệ điều hành chủ. Macro virus là loại virus viết ra bằng ngôn ngữ lập trình Visual Basic cho các ứng dụng (VBA) và tùy theo khả năng, có thể lan nhiễm trong các ứng dụng văn phòng của Microsoft như Word, Excel, PowerPoint, OutLook,.... Loại macro này, nổi tiếng có virus Baza và virus Laroux, xuất hiện năm 1996, có thể nằm trong cả Word hay Excel. Sau này, virus Melissa, năm 1997, tấn công hơn 1 triệu máy, lan truyền bởi một tệp đính kèm kiểu Word bằng cách đọc và gửi đến các địa chỉ của Outlook trong các máy đã bị nhiễm virus. Virus Tristate, năm 1999, có thể nằm trong các tệp Word, Excel và Power Point.
  • Năm 2000: Virus Love Bug, còn có tên ILOVEYOU, đánh lừa tính hiếu kì của mọi người. Đây là một loại macro virus. Đặc điểm là nó dùng đuôi tập tin dạng "ILOVEYOU.txt.exe". Lợi dụng điểm yếu của Outlook thời bấy giờ: theo mặc định sẵn, đuôi dạng .exe sẽ tự động bị dấu đi. Ngoài ra, virus này còn có một đặc tính mới của spyware: nó tìm cách đọc tên và mã nhập của máy chủ và gửi về cho tay hắc đạo. Khi truy cứu ra thì đó là một sinh viên người Philippines. Tên này được tha bổng vì Philippines chưa có luật trừng trị những người tạo ra virus cho máy tính.
  • Năm 2002: Tác giả của virus Melissa, David L. Smith, bị xử 20 tháng tù.
  • Năm 2003: Virus Slammer, một loại worm lan truyền với vận tốc kỉ lục, truyền cho khoảng 75 ngàn máy trong 10 phút.
  • Năm 2004: Đánh dấu một thế hệ mới của virus là worm Sasser. Với virus này thì người ta không cần phải mở đính kèm của điện thư mà chỉ cần mở lá thư là đủ cho nó xâm nhập vào máy. Cũng may là Sasser không hoàn toàn hủy hoại máy mà chỉ làm cho máy chủ trở nên chậm hơn và đôi khi nó làm máy tự khởi động trở lại. Tác giả của worm này cũng lập một kỉ lục
0