Chính sách trong chiến lược thúc đẩy xuất khẩu
Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật giản đơn đến công nghiệp chế tạo dựa trên vốn cao và ...
Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật giản đơn đến công nghiệp chế tạo dựa trên vốn cao và kỹ thuật hiện đại. Trong đó sự chuyển dịch cơ cấu hàng chế tạo và tỉ lệ hàng chế tạo xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh.
Công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu không phải là mục đích tự thân mà nó là phạm trù lịch sử cho nên mục tiêu trực tiếp cụ thể không thể nào khác là nhằm phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, có hiệu quả. Phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ 21.
Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, buộc sản xuất trong nước phải luôn đổi mới công nghệ, không thể tồn tại với năng suất thấp kém, mau chóng nâng cao khả năng tiếp thị, tự do hoá thương mại. Đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của thị trường, kể cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu.
Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu nhằm:
- Để đảo bảo kim nghạch nhập khẩu phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
- Gắn sản xuất và nền kinh tế trong nước với các hoạt động của nền kinh tế thế giới, nối kết các nền kinh tế với nhau và tạo ra một không gian kinh tế rộng lớn hơn nhờ liên kết và buôn bán quốc tế.
- Tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu. Khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của đất nước, kích thích các ngành kinh tế phát triển. Buộc các ngành kinh tế, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải đổi mới công nghệ, tiếp thu kỹ thuật mới, phát huy lợi thế của các nước đi sau để đi tắt vào kỹ thuật tiên tiến nhất.
- Góp phần tăng tích luỹ và sử dụng vốn trong nước. Tận dụng được nguồn vốn của nước ngoài có tính đến kinh nghiệm của các nước đi trước.
- Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước.
- Thúc đẩy phát triển quan hệ đối ngoại giữa các nước, nâng cao uy tín của Việt nam trên trường quốc tế và khu vực.
Việc đưa ra một chính sách hướng về xuất khẩu với những nội dung phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt nam là vô cùng quan trọng. Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu thực chất là chiến lược phát triển kinh tế. Nó không phải là nhiệm vụ của một ngành cụ thể mà nó là nhiệm vụ của các ngành kinh tế, dịch vụ khác. Nó không phải chỉ là nhiệm vụ của cơ quan xuất nhập khẩu mà nó còn là của cơ quan quản lý, cơ quan sản xuất, cơ quan ra quyết định. Phấn đấu đạt một nền ngoại thương tương đối phát triển, năm 2000 bình quân xuất khẩu đầu người đạt 170 - 200 USD, tốc độ xuất khẩu bình quân hàng năm tăng 24 - 28%, chúng ta phải thực hiện các chính sách:
Chính sách chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Nhân tố quyết định quy mô, nhịp độ xuất khẩu hàng hoá là cơ cấu hàng xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Xác định cơ cấu hàng hoá có hiệu quả và những mặt hàng chủ lực là nội dung quan trọng của chính sách mặt hàng xuất khẩu.
Trong nền kinh tế thị trường việc đổi mới chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu, điều kiện và khả năng sản xuất ở trong nước, hiệu quả. Trong ba yếu tố trên hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất trong sự lựa chọn cơ cấu và mặt hàng xuất khẩu.
Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng thô và sơ chế đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Giảm tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu mới, tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Nhiệm vụ trong thời gian tới là chúng ta phải cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu theo những hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, giảm tỷ trọng xuất khẩu thô và sơ chế tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến ngày càng sâu và tinh, giảm tỷ trọng xuất khẩu nông sản, thuỷ sản thô. Tiếp tục cấm xuất khẩu gỗ tròn, gỗ sẻ, giảm dần xuất khẩu dầu thô, quặng thô, tài nguyên chưa qua chế biến. Chuyển từ xuất khẩu gạo, cà phê hạt, hạt điều, rau quả sang thực phẩm chế biến như cà phê hoà tan... có bao bì hiện đại, mẫu mã đẹp, thuận lợi cho bảo quản và sử dụng.
Thứ hai, tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu để một mặt nâng cao giá trị hàng xuất khẩu mặt khác tận dụng được lao động trong nước. Kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài để chế biến thành sản phẩm những ngành cần đầu tư nhiều vốn để một phần thay thế hàng nhập khẩu.
Thứ ba, nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu để tăng sức cạnh tranh hàng hoá của ta trên thị trường quốc tế.
Thứ tư, tạo ra những ngành hàng xuất khẩu mới có giá trị cao mạnh dạn đào thải những mặt hàng xuất khẩu không mang lại hiệu quả kinh tế. Tiến hành phát triển quy hoạch các mặt hàng chủ lực để xuất khẩu.
Chính sách gắn sản xuất với xuất khẩu.
Chính sách này có tầm quan trọng trong việc đẩy mạnh hàng xuất khẩu. Chúng ta cần phải thấy được mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa sản xuất và xuất khẩu. Sản xuất tốt thì xuất khẩu tốt, kinh tế tăng trưởng và ngược lại. Sản xuất là điều kiện cần của xuất khẩu. Muốn tạo ra được hàng hoá xuất khẩu chiếm lĩnh được thị trường thì khâu sản xuất phải được chú trọng, để tạo ra sản phẩm chất lượng tốt, giá thành hạ. Muốn vậy phải tạo điều kiện để người sản xuất hiểu biết về thị trường của từng nước, từng khu vực trên thế giới và thị trường trong nước. Thiết lập tốt mối quan hệ bạn hàng với các tổ chức và cá nhân kinh doanh xuất nhập khẩu trong và ngoài nước thực hiện phương châm “ Buôn có bạn, bán có phường “ thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các nhà sản xuất hàng xuất khẩu như: các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu tăng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu được giảm thuế lợi tức, các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, vật tư tiêu dùng cho gia công hàng, tiền gia công hàng được miễn thuế doanh thu. Vật tư hàng nhập khẩu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn lại thuế nhập khẩu đã nộp.
Chính sách mở cửa thị trường.
Để thúc đẩy chiến lược hướng về xuất khẩu, Đảng và nhà nước chủ trương mở rộng và tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hiện phương châm mở cửa. Việt nam muốn làm bạn với tất cả các nước, các tổ chức kinh tế quốc tế, không phân biệt thể chế chính trị, tôn giáo, các tổ chức Chính phủ hay tổ chức phi Chính phủ nhằm tìm kiếm thị trường và bạn hàng cho các sản phẩm xuất khẩu.
Trong thời gian tới, Việt nam cần củng cố tăng cường quan hệ buôn bán với các nước Châu á: phát triển thương mại với các khu vực khác, với Châu Âu, Châu Mỹ, Trung đông. Song song với việc mở rộng thị trường mới, cần tìm cách xây dựng lại thị trường truyền thống có quan hệ từ lâu là Liên xô cũ và Đông Âu.
Sau đây là một số thị trường quan trọng của Việt nam hiện nay và trong tương lai :
Thị trường ASEAN: tuy khả năng về vốn công nghệ của các nước ASEAN không phải là lớn, nhưng đây là thị trường mà Đảng và nhà nước ta quan tâm vì đây là những nước láng giềng. Trong lịch sử đã có các mối quan hệ quốc tế, chính trị, văn hoá lâu đời. Kinh nghiệm phát triển của các nước này đã trở thành bài học quý báu cho Việt nam. Việt nam thông qua ASEAN, từng bước tham gia thực hiện phân công lao động quốc tế.
Trên cơ sở đó, Chúng ta có các chính sách phù hợp cho từng nước trong khu vực để có khả năng xuất khẩu tốt hơn.
Với Malaysia, ta có hợp tác trồng và khai thác cao su, hợp tác kinh doanh về cây có dầu, nông nghiệp. Tranh thủ vốn kỹ thuật phục vụ cho các công trình năng lượng, dịch vụ bưu điện lắp ráp ôtô, chế biến hoa quả.
Với Singapore, ta có nhiều điều kiện tiếp xúc tăng cường quan hệ mậu dịch, hợp tác xây dựng khách sạn làm hàng xuất khẩu, hợp tác nghiên cứu về xây dựng hệ thống giao thông.
Với Thái Lan, ta có khả năng hợp tác khai thác đánh bắt nuôi trồng và chế biến hải sản, khai thác đá quý, hợp tác liên doanh trồng và chế biến nông sản, chế biến thức ăn gia súc, sản xuất hàng dệt, hàng tiêu dùng...
Với Philippin, ta cần thúc đẩy buôn bán hai chiều đồng thời xúc tiến các liên doanh về lắp ráp ôtô, khai thác cát trắng, công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản...
Với Indonesia ta có điều kiện tiếp tục buôn bán hai chiều nhập phân bón, sắt thép thành phẩm và có thể hợp tác với Indonesia về các lĩnh vực dịch vụ khách sạn, ngân hàng, hơi đốt, sản xuất URE, khai thác than...
Với Brunei, ta có thể liên doanh về hàng không, dịch vụ tranh thủ vốn và hợp tác lao động.
Thị trường Nhật bản: nhật bản hiện nay đã trở thành trung tâm giao dịch chứng khoán, tiền tệ lớn thế giới. Nhật bản có thế mạnh về kinh tế, công nghiệp, thương mại và thị trường. Nhật bản đang hướng vào các hoạt động tiền tệ vào Châu á muốn tăng cường buôn bán, đầu tư vào các nước Châu á. Trong nhiều năm qua Nhật bản là thị trường quan trọng của Việt nam. Nhật bản nhập khẩu phần lớn là dầu thô, than đá, hàng thuỷ sản của Việt nam. Chính sách của Việt nam chú trọng vào thị trường này là vì Nhật bản đã mở lại viện trợ phát triển cho Việt nam vay. Nhật bản cần nhiều thứ của Việt nam như dầu thô hàng công nghiệp may mặc, than đá, các mặt hàng thuỷ sản. ngược lại, nước ta cần nhập khẩu nhiều thứ của Nhật như máy móc, trang thiết bị điện tử tin học, nguyên liệu, phân bón, hàng tiêu dùng...
thị trường liên hiệp Châu âu Eu (European Union). Eu là thị trường lớn. Trong quá khứ chúng ta ít buôn bán với thị trường này bởi chính sách phong toả kinh tế đối với các nước XHCN của các nước đế quốc. Nhưng từ khi Liên xô và các nước Đông Âu tan rã quan hệ thương mại, đầu tư Việt nam vào Eu được cải thiện. Đặc biệt sau những chuyến viếng thăm của các vị lãnh đạo cao cấp nhà nước ta. Quan hệ kinh tế giữa Eu và Việt nam được tăng cường. Việt nam tiếp tục thúc đẩy chính sách xuất khẩu sang Eu, các mặt hàng xuất khẩu Việt nam sang Eu bao gồm nông sản, thuỷ sản, hàng dệt may... nhập khẩu về những nguyên liệu và máy móc thiết bị công nghệ cao.
Thị trường Mỹ: là thị trường chủ lực, tạo đà cho sự cất cánh và phát triển kinh tế của nhiều nước như Thai Lan, Malaysia, Philippin, Trung quốc... Mỹ đã bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt nam ngày 3/2/1994. Hiện nay, xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang Mỹ mỗi năm một tăng và đang đứng trước triển vọng khá sáng sủa. Chúng ta đã có 7 mặt hàng lớn xuất khẩu sang Mỹ. Đó là cà phê, dầu thô, giầy dép - đồ da, hải sản, dệt may, rau quả và gạo. Chúng ta phải có chính sách thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ - thị trường Mỹ là thị trường chủ lực.
Thị trường các nước SNG: thị trường SNG đã từng là thị trường quan trọng nhất đối với Việt nam trong quá khứ. Nhờ có thị trường Liên Xô mà trong nhiều năm ta nhập khẩu được những nguyên liệu thiết yếu như sắt thép, xăng dầu, phân bón, hoá chất... Phục vụ cho cuộc sống bảo vệ đất nước và phát triển nước nhà. Đồng thời, ta cũng xuất khẩu được nhiều sản phẩm sang thị trường SNG. Từ năm 1991 do sự tan dã của Liên Xô. Các nước thuộc SNG bị khủng hoảng sâu sắc về kinh tế chính trị nên quan hệ thương mại nói riêng và quan hệ kinh tế nói chung giữa Việt nam và các nước SNG bị giảm sút. Tuy nhiên về lâu dài và trong tương lai chúng ta phải khôi phục và phát triển quan hệ thương mại với các nước SNG vì: các nước SNG là bạn hàng truyền thống, dung lượng thị trường lớn, dân số đông, đất nước rộng, đang có nhu cầu rất lớn về nhiều loại hàng hoá mà Việt nam có thể đáp ứng được như: gạo, thịt, rau quả, cao su, cà phê, hàng may mặc và hàng thủ công mỹ nghệ... Hơn nữa, các nước SNG là những nước giầu tài nguyên mà Việt nam đang cần nhập khẩu như xăng dầu, hoá chất, bông, sắt thép, phân bón... Phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước.
Thị trường trung Đông: khu vực trung Đông nằm giữa ba châu á, Âu, Phi, không những có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đối với các nước lớn mà còn là một thị trường hàng năm nhập một khôí lượng lớn hàng nông, lâm, hải sản, gia vị, hàng mỹ nghệ và các mặt hàng tiêu dùng khác. Khu vực này với số dân khoảng 250 triệu người. Trung Đông chiếm khoảng 60% trữ lượng dầu mỏ của toàn thế giới; hầu hết các nước trong khu vực đã có quan hệ ngoại giao với Việt nam (trừ Saudi Arabi), một số nước đã có quan hệ kinh tế, thương mại, đã có ký kết hiệp định thương mại và thành lập uỷ ban hỗn hợp liên Chính phủ với Việt nam như Iraq, Libi, Ai cập... Các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam sang khu vực Trung Đông là gạo, chè đen. Để tăng kim ngạch xuất khẩu của ta trong những năm tới, việc tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu là cần thiết. Trung Đông - một thị trường có sức tiêu thụ lớn, các công ty xuất khẩu của ta cần thâm nhập hơn nữa vào thị trường này.
Chính sách đầu tư trong và ngoài nước.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: "Cần huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng ...”
Đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia. Trong những năm trước mắt khi mà nguồn vốn tích luỹ nội bộ còn hạn hẹp thì đầu tư nước ngoài chiếm vị trí quan trọng. Thông qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài chúng ta tranh thủ được vốn, kỹ thuật và công nghệ mới, mở rộng thị trường ngoài nước, tiếp thu kinh nghiệm tiên tiến, trên cơ sở đó xây dựng những cơ sở kinh tế mới, hiện đại hoá cơ sở hiện có nhằm tạo việc làm cho người lao động, khai thác một phần những tiềm năng của đất nước để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu.
Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Hiện nay khu vực có đầu tư nước ngoài chiếm 100% sản lượng dầu thô, 44,8% sản lượng thép... Trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1996 phần đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 11% nếu tính cả xuất khẩu dầu thô thì tỷ lệ này nên đến 25%.
Trong thời gian vừa qua, khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông Nam á làm cho môi trường đầu tư của họ xấu đi sẽ đưa đến kết quả là quá trình phân bố lại chu chuyển vốn đầu tư trong khu vực và làm chậm lại quá trình tự do hoá thương mại đầu tư và tiền tệ trong khu vực các nước ASEAN. Đó cũng chính là cơ hội để Việt nam có thể nhận thêm các nguồn đầu tư mới, tranh thủ thời gian hội nhập nhanh hơn vào khu vực.
Nhà nước ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật đầu tư nước ngoài, tạo ra một “sân chơi” thông thoáng, hấp dẫn, bình đẳng, thuận lợi cho các bạn hàng quốc tế tham gia đầu tư liên doanh liên kết.
Đổi mới các công cụ và thể chế quản lý xuất khẩu.
Nước nào cũng coi trọng việc xuất khẩu Chính phủ đã có nhiều chính sách thúc đẩy, tuy nhiên xuất khẩu là một công việc phức tạp gặp không ít khó khăn trong các lĩnh vực như: tài chính, giấy phép, kiểm soát, ngoại tệ và các chính sách của Chính phủ. Do vậy việc đổi mới chính sách và thể chế quản lý xuất khẩu là vấn đề mà chúng ta cần phải bàn đến. Việc quản lý xuất khẩu được thực hiện bằng quy chế quản lý ngoại tệ. Không phải lúc nào nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài dạng xuất khẩu như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu hoặc có ý nghĩa chiến lược đối với đất nước.
Để thực hiện thành công chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, Việt nam cần tiếp tục hoàn thiện và đổi mới các công cụ.
Thuế xuất khẩu.
Nhà nước ta sử dụng chính sách thuế với tư cách là một công cụ quan trọng để khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, vừa qua Nhà nước ta đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế, miễn thuế hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, áp dụng thuế xuất khẩu thấp đối với một số mặt hàng còn chịu thuế, sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Việt nam đã có những ưu đãi cần thiết cho nhà đầu tư chẳng hạn: Toàn bộ thiết bị đầu tư nhập khẩu để hình thành xí nghiệp, nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu đều được miễn thuế nhập khẩu. Tuỳ theo từng dự án, các nhà đầu tư phải nộp thuế lợi tức 10%, 15%, 20% hoặc 25% (trừ dầu khí, vàng bạc, đá quý, thuế lợi tức có thể cao hơn). Các dự án đầu tư có thể được miễn giảm thuế lợi tức tối đa là miễn 4 năm và giảm 4 năm tiếp theo kể từ khi liên doanh có lãi. Các nhà đầu tư được phép chuyển lợi nhuận về nước hoặc sang nước thứ 3 và chịu mức thuế chuyển lợi nhuận 5%, 7% hoặc 10% tuỳ theo từng dự án. Trong trường hợp họ không chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt nam mà tái đầu tư ở Việt nam thì được hoàn lại toàn bộ thuế lợi tức cho số lợi nhuận tái đầu tư đó.
Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, luật thuế giá trị gia tăng đã được thông qua và sẽ được áp dụng từ 1/1/1999 trong đó quy định mức thuế 0% đối với tất cả các hàng hoá xuất khẩu và các hàng hoá này còn được thoái trả thuế giá trị gia tăng ở các khâu trước. Đây thực sự là biện pháp tài chính khuyến khích xuất khẩu tích cực của Việt nam
Hạn ngạch xuất khẩu.
Hàng năm bộ thương mại công bố danh mục các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch. Bên cạnh đó giảm dần các mặt hàng quản lý hạn ngạch kể cả xuất khẩu và nhập khẩu trừ các hạn ngạch đối với các mặt hàng có cam kết số lượng với nước ngoài mà Việt nam cần phải thực hiện.
Việc dành hạn ngạch xuất khẩu để phân bố cho các địa phương, đơn vị sản xuất thông qua các bộ, ngành hàng như hiện nay vừa gây phiền hà cho cơ sở, vừa không phù hợp với kinh tế thị trường. Các địa phương, các đơn vị sản xuất cố giành cho được quota mặc dù thiếu vốn, không có thị trường, thiếu phương tiện kinh doanh, không có khả năng thực hiện. Điều đó tất yếu dẫn đến tình trạng mua bán quota vòng vèo. Do vậy cần hoàn thiện phương thức phân bố quota theo nguyên tắc “ Một cửa” chỉ phân cho các đơn vị đã có quyền xuất khẩu trực tiếp theo nhóm hàng xuất khẩu đem lại hiệu quả cao. Tiến tới phân bổ quota theo hình thức gọi thầu hoặc đấu giá với sự tham gia của các đơn vị sản xuất và đơn vị lưu thông có vốn và quan hệ thị trường.
Giấy phép xuất khẩu:
Nếu hàng hoá thuộc diện quản lý bằng giấy phép thì các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải xin phép xuất khẩu tại cơ quan có thẩm quyền do pháp luật quy định. ở Việt nam các loại hàng hoá sau đây khi qua các cửa khẩu Việt nam đều phải có giấy phép xuất khẩu:
- Hàng xuất để thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương.
- Hàng xuất khẩu theo các dự án đầu tư chuyển giao công nghệ của nước ngoài.
- Hàng uỷ thác xuất khẩu
- Hàng dự hội trợ, triển lãm quảng cáo
Giấy phép xuất khẩu chỉ cấp cho các tổ chức có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trong phạm vi hạn ngạch quy định cho mặt hàng đó. Đối với những mặt hàng không quản lý bằng hạn ngạch hoặc đăng ký tại Bộ thương mại không hạn chế số lượng hoặc giá trị.
Thủ tục hải quan - Xuất khẩu hàng hoá.
Hàng xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu theo các quy định chính thức về xuất khẩu hàng hoá và có khi theo yêu cầu của nước nhập hàng hoá. Việc làm thủ tục xuất khẩu cho hàng hoá liên quan đến các biện pháp quản lý như:
- Hạn chế số lượng ( Giấy phép xuất khẩu )
- Hạn chế ngoại tệ ( Giám sát ngoại hối )
- Hạn chế tài chính ( Kiểm tra hải quan thuế )
- Nhu cầu thống kê thương mại.
- Kiểm tra số lượng, chất lượng, kiểm tra vệ sinh y tế.
Khi làm thủ tục hải quan thông thường phải kiểm tra tư cách pháp nhân của doanh nghiệp cũng như kiểm tra các chứng từ có hợp lệ và đúng quy định không.
Quản lý ngoại tệ.
Đa số các nước đang phát triển đều quy định cho các nhà xuất khẩu phải chuyển khoản ngoại tệ thu được vào ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ. Nhưng cũng có nhiều nước cho phép dùng số ngoại tệ thu được do xuất khẩu để nhập khẩu hàng hoá cần thiết. ở Việt nam, nhà nước cấm gửi ngoại tệ thu được do xuất khẩu vào các ngân hàng ở nước ngoài.
Tỉ giá hối đoái.
Sự thay đổi tỷ giá hối đoái là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu và đương nhiên nó ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ đến quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy chính sách tỷ giá hối đoái luôn được xem xét trong bối cảnh của chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vấn đề là cần phải có chính sách về tỷ giá hối đoái linh hoạt đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thị trường trong và ngoài nước. Bởi vì tỷ giá hối đoái có thể làm cho những cố gắng trong sản xuất để xuất khẩu tăng thêm phần lớn giá trị hoặc hoàn toàn uổng công. Một chính sách về tỷ giá linh hoạt là một chính sách luôn giữ cho kim ngạch xuất khẩu có thể cân bằng với kim ngạch nhập khẩu trong mọi biến động giá cả ở thị trường nội địa và thị trường thế giới. Không nên để tỷ giá đồng tiền Việt nam và đồng tiền nước ngoài chênh lệch quá xa so với tỷ giá trên thị trường.
Chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có một khuôn khổ tổ chức có hiệu quả để giải quyết các lĩnh vực như: thu thập thông tin, phân phối thông tin và tiếp thị...
Những hình thức hỗ trợ xuất khẩu bao gồm việc thành lập các tổ chức đẩy mạnh xuất khẩu, giúp đỡ cho việc tiếp thị xuất khẩu và hỗ trợ cho các công ty thương mại. ở Việt nam nên có tổ chức xúc tiến thương mại của các nước tại Việt nam với mục tiêu: đẩy mạnh đầu tư nước ngoài vào Việt nam và tăng cường xuất khẩu các sản phẩm của Việt nam ra nước ngoài các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu, tập trung đưa ra các giải pháp để tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu có các điều kiện dễ dàng như:
- Hỗ trợ ngoại tệ cho các công ty nhập khẩu thông qua các hình thức cho vay với lãi xuất ưu đãi.
- Cấp các thủ tục đặc biệt.
- Đầu tư vào một số công ty mậu dịch quốc tế.
- Tổ chức trao đổi giữa các nhà hoạch định chính sách với các nhà xuất khẩu để thống nhất mục tiêu xuất khẩu.
Ngân hàng Nhà nước Việt nam cần trợ cấp về mặt tài chính cho các đơn vị, cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu nhằm thực hiện tốt, nhanh chóng kế hoạch và mục tiêu của đơn vị dưới hình thức cho vay với lãi xuất ưu đãi. Đặc biệt trợ cấp đối với các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực, các cơ sơ sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn nhưng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu đó mang lại nhiều ngoại tệ và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho đất nước.
Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
Việc đào tạo mới, đào tạo lại và bồi dưỡng để nhanh chóng tạo ra một đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và các nhà kinh doanh giỏi, thành thạo và linh hoạt thích ứng với nền kinh tế thị trường là một nhân tố rất quan trọng cho sự nghiệp đổi mới kinh tế và thay đổi cơ cấu xuất khẩu.
Trong hoạt động kinh doanh buôn bán với nước ngoài, cơ chế kinh doanh, phương pháp kinh doanh của các đơn vị kinh tế của ta không thể thoát ly khỏi thông lệ quốc tế, trái lại phải phù hợp và tuân thủ với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, vấn đề đào tạo cán bộ về luật thương mại quốc tế, về cách làm ăn với nước ngoài, về tiếp thị thị trường, bạn hàng... cần được giải quyết trong các năm tới.
Tham gia các tổ chức kinh tế thế giới.
Trên thị trường thế giới đang diễn ra sự đấu tranh gay gắt giữa hai xu hướng tự do hoá thương mại và xu hướng bảo hộ mậu dịch. Trong điều kiện đó tham gia các tổ chức quốc tế có vai trò như một giải pháp trung hoà để tạo nên các khu vực thị trường tự do cho các thành viên.
Liên kết kinh tế quốc tế nhằm thưc hiện điều chỉnh có ý thức và phối hợp các chương trình phát triển kinh tế với những thoả thuận có đi có lại của các thành viên. Nó là bước quá độ trong quá trình vận động của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hoá.
Thông qua việc phối hợp các chương trình phát triển mà khai thác triệt để lợi thế so sánh của mỗi bên, tạo nên một cơ cấu sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu có hiệu quả cao, thúc đẩy mở rộng trao đổi mậu dich quốc tế cũng như kích thích đầu tư quốc tế và các hoạt động khác giữa các thành viên.
Vì vậy, Việt nam cần phải tích cực tham gia các tổ chức kinh tế ở khu vực và trên thế giới. Việt nam đang là thành viên của ASEAN thì cần phải phát huy và nâng cao hơn nữa địa vị và vai trò của mình. Việt nam tham gia và cam kết thực hiện tốt các vấn đề với AFTA, tiến tới ra nhập Apec (tháng 11/1998 Việt nam sẽ ra nhập Apec) và tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế WTO.