18/06/2018, 16:14

Chiến tranh trăm năm giữa Pháp và Anh- bài 3

Trận Poitiers năm 1356 Những sự kiện lớn giữa Pháp và Anh trước khi xảy ra trận Poitiers Năm 1347 Vùng Bearn tự tuyên bố là một tiểu quốc độc lập bởi Bá tước Gaston Phoebus của Foix nhưng không được nhà vua Pháp chấp nhận. Bệnh dịch “ Black Death” loang tới Marseilles. ...

Trận Poitiers năm 1356 

Những sự kiện lớn giữa Pháp và Anh trước khi xảy ra trận Poitiers

Năm 1347 Vùng Bearn tự tuyên bố là một tiểu quốc độc lập bởi Bá tước Gaston Phoebus của Foix nhưng không được nhà vua Pháp chấp nhận. Bệnh dịch “ Black Death” loang tới Marseilles.

Năm 1349 Vùng Dauphine được mua lại từ Đế chế La Mã Thánh thần, chiếm được vùng Montperllier từ tay của xứ Aragon
Tháng 12 Bá tước Lancaster đột kích vào vùng Languedoc tới tận Toulouse sau đó lại phải tháo chạy.

Năm 1349 -> 50 Người Pháp chiếm lại các vùng Prigny, Bouin, Beauvoir và Noirmoutier ở phía nam vùng Brittany từ tay người Anh và các đồng minh của họ.

Năm 1351 -> 52 Người Anh thiết lập các đơn vị đồn trú ở tỉnh Quercy, mặc dù các thị trấn trung tâm vẫn nằm trong sự kiểm soát của người Pháp.

Năm 1355 Tháng 10 -11 Cuộc Đại đột kích của Hoàng tử xứ Wales vào vùng Languedoc đã với tới Narbon.
Tháng 11 Các đợt tấn công du kích được tiến hành bởi vua Edward III từ Calais đã tới Hesdin, nhưng nhà vua đã rút lui khi đối mặt với quân Pháp từ Amiens.
Tháng 12 ( tới tận tháng 2 năm 1356) Nhiều thị trấn ở các tỉnh Perigord, Guyenne và Agenais bị chiếm bởi quân Anh.

Năm 1356 Tháng 6 Đại diện của các thị dân vùng Languedoc tập hợp tại Beziers để bàn cách hợp tác phòng thủ.
Ngày 19 tháng 6 Bá tước Stafford mang thêm quân tăng viện và chỉ thị của vua Edward III tới Hoàng tử Đen tại Bordeaux
21 tháng 6 Phái đoàn hòa giải của Giáo hoàng rời Avignon và hướng đến triều đình Pháp.
Tháng 6 ->7 Bá tước Lancaster tiến hành đột kích khắp vùng Normandy.
Tháng 7 Southampton được tuyên bố là điểm lên tầu cho một cuộc viễn chinh tới nước Pháp. Vua John II của Pháp cử Bá tước Poitiers tới Bourges để tập hợp quân đội.
Ngày 6 tháng 7 Hoàng từ xứ Wales tiến đến La Reole, đây là điểm tập hợp của quân đội người Gascon ( quân đội người Pháp thân Anh).
Ngày 12 tháng 7 Vua John tiến hành bao vây Breteuil
Đầu tháng 8 Hạm đội của người Aragon đã đến sông Seine, bá tước Poitiers thiết lập sở chỉ huy của ông ta ở Bourges
Tháng 8 ( hoặc đầu tháng 9) Bá tước Lancaster tiến quân với mục đích hỗ trợ cho Hoàng tử xứ Wales
Ngày 4 tháng 8 Quân đội của Hoàng tử Đen đến được Bergerac được chia ra thành nhiều toán quân nhỏ để phòng thủ xứ Gascony.
Ngày 9 tháng 8 Hoàng tử Đen tiến tới Brantome
Ngày 10 tháng 8 Hạm đội của xứ Aragon đã chặn đứng việc chuyển quân tiếp viện từ Southampton đến Pháp.
Ngày 12 tháng 8 Hoàng tử xứ Wales tiến đến Rochechouart.
Ngày 18 tháng 8 Bá tước Poitiers rút khỏi Bourges và thiết lập một sở chỉ huy mới ở Decise vào ngày 21 tháng 8, ông nhận được lệnh phải giữ được vùng Loire tới khi nhà vua và nhà Dauphin ( hoàng tộc của Pháp thời đó) tới và tăng viện cho ông.
Ngày 20 tháng 8 Quân đồn trú người Navarres tại lâu đài Breteuil đã đầu hàng trước vua John.
Ngày 22 tháng 8 Hoàng tử xứ Wales tiến đến vùng Argenton.
Ngày 7 tháng 9 Hoàng tử xứ Wales đến được Tours và thiết lập sở chỉ huy tại Montlouis, các cuộc tấn công của người Anh vào Tours đều thất bại.
Ngày 8 tháng 8 Quân đội của nhà vua John đến được Meung-sur-Loire.
Ngày 10 tháng 9 Vua John hội binh với Bá tước Poitiers, vượt sông Loire và hành quân đến Amboise.
Ngày 11 tháng 9 Hoàng tử xứ Wales rút lui về phía nam, vượt qua sông Cher và Indre để đến Montbazon.
Ngày 12 tháng 9 Phái đoàn hòa giải của Giáo Hoàng đến gặp Hoàng tử Đen, cũng khoảng ngày hôm đó Quân đội Pháp dưới sự chỉ huy của Charles Dauphin ( sau này là vua Charles V của Pháp) đã tới Tours, vua John hành quân từ Amboise về hướng Poitiers.
Ngày 13 tháng 9 Hoàng tử Đen đến được thành phố La Hay thuộc vùng Creuse. Vua John đến được vùng Loches.
Ngày 14 tháng 9 Vua John đến La Haye. Hoàng tử Đen đến đến được Châtellerault và ở lại đó 3 ngày với hy vọng liên lạc được với Công tước Lancaster-người đã không thể vượt sông Loire.
Ngày 15 tháng 9 Vua John đến được vùng Chauvigny
Ngày 17 tháng 9 Hoàng tử Đen rời vùng Châtellerault, ông ta đến được vùng Chauvigny-Poitiers và thấy rằng quân Pháp đang tiến về Poitiers, đại úy de Buch tấn công vào hậu quân Pháp tại La Chaboterie, quân Anh rút lui và đóng trại trong rừng.
Ngày 18 tháng 9 Người Anh phát hiện ra rằng quân Pháp hạ trại ở giữa Poitiers và Savigny-Levescault, Hoàng tử xứ Wales dàn quân đội của ông ta ở phía Bắc của Nouaillé.
Ngày 19 tháng 9 Nổ ra trận Poitiers, Hoàng tử xứ Wales đánh bại và bắt tù binh vua John II.
Ngày 21 tháng 10 Liên quân Anh-Gascon hành quân về phía nam từ Poitiers.
Ngày 29 tháng 9 Charles Dauphine tiến vào Paris để thành lập một chính phủ Pháp mới.
Cuối tháng 9 Công tước xứ Lancaster rút lui về Brittany.
Ngày 3 tháng 10 Quân Anh và những người Breton ủng hộ họ đã bao vây không thành công Rennes.
Tháng 10 năm 1356 tới tháng 1 năm 1358 Liên quân Anh-Navarrese chiếm được phần lớn những vùng lãnh thổ của Normandy.
Tháng 12 Vùng Pont-Audemer bị tái chiếm bởi Charles Dauphine.

Trong phần lớn thời gian Trung cổ, chế độ xã hội của Pháp và Anh rất giống nhau, đặc biệt là trong các vùng trung tâm của phía Nam nước Anh và miền Bắc nước Pháp. Hơn nữa giai cấp thống trị của Anh vẫn nói tiếng Pháp và phần lớn có nguồn gốc Pháp. Ngược lại có sự khác biệt đáng chú ý trong văn hóa, ngôn ngữ và pháp luật từ miền nam nước Pháp vốn là di sản của nền văn hóa La Mã -Địa Trung Hải. Vì vậy, rất hài hước khi những tài sản đất đai lớn nhất trên đất Pháp lại thuộc về nước Anh và những đồng minh trung thành nhất của Pháp lại ở vùng Aquitaine (một vùng đất đã từng thuộc về nhà Plantagenet) ở phía tây nam Pháp, ở đó mặc dù không phải là vùng thuộc Địa Trung Hải, nhưng nó vẫn bảo quản nền văn minh Romano-Christian trong suốt thời gian đầu thời trung cổ.

Trong những thập niên đầu của cuộc chiến tranh trăm năm giữa nước Pháp và nước Anh người ta đã thấy hai chiến thắng đáng chú ý của người Anh. Đầu tiên là chiến thắng trên biển, gần cảng Sluvs năm 1340. Chiến thắng thứ hai gây nhiều ngạc nhiên hơn đối với các quốc gia châu Âu khác-đó là việc vua Edward III đã đánh bại và ghiền nát quân đội của vua Philip VI tại trận Crécy trong năm 1346. Đột nhiên, một vương quốc đã được ghi nhận vì hòa bình và thịnh vượng hơn là sức mạnh quân sự thu được từ danh tiếng của một quân đội có hiệu quả chiến đấu cao và các cung thủ trường cung vốn ngày càng được tôn trọng.
.
Hai năm sau thất bại ở Crécy, nước Pháp lại phải chịu một thảm họa lớn hơn với sự xuất hiện của Black Death-đó là bệnh dịch hạch vốn đã nhanh chóng lan rộng trên hầu như tất cả các châu Âu, nhưng dường như mới nhập vào Pháp qua cảng Địa Trung Hải và bùng phát mạnh ở thành phố cảng Marseilles. Hàng triệu người chết trong nhiều đợt dịch bệnh và một số sử gia cho rằng có đến nửa dân số Pháp đã thiệt mạng vì bệnh dịch này.

Không có gì đáng ngạc nhiên, Black Death đã làm cho cuộc chiến giữa Anh và Pháp phải tạm dừng. Thậm chí bệnh dịch hạch đã tác động đến sự sẵn có của những đàn ngựa bởi vì nó làm sụp đổ nền kinh tế dân cư ở vùng nông thôn, điều có nghĩa là không có đủ thức ăn để giữ cho những đàn ngựa còn sống. Đây là những yếu tố cực kỳ quan trọng, bởi vì vào giữa thế kỷ 14 Chiến tranh Trăm năm là một cuộc chiến tổng lực trên cả mặt trận quân sự lẫn kinh tế và nó đã mang lại sự căng thẳng nghiêm trọng về tài chính cho cả hai phía.

Khi John II lên ngôi của Pháp năm 1350, ông thừa hưởng một vương quốc bị suy yếu do nạn đói, bệnh tật và hàng loạt các cuộc tấn công cướp phá trên diện rộng của người Anh. Vị vua trẻ tuổi đã cai trị vương quốc với sự hỗ trợ của một nhóm nhỏ các Đại qúy tộc cấp cao và các đại diện của các tầng lớp quý tộc thấp hơn. Họ đều đồng thuận rằng việc cần thiết trước mắt là phải có những thứ như những sắc thuế mới. Những lãnh chúa mạnh nhất thường hội họp với nhà vua của họ trong căn cứ quyền lực địa chính trị của riêng họ và không giống như Nghị viện Quý tộc Anh, Quốc-Hội Pháp vẫn chưa phát triển. Mặt khác vua John II đã có nhiều cố gắng để cải cách chính phủ, củng cố quyền lực của hoàng gia và tăng cường sức mạnh của quân đội Pháp để có thể trỗi dậy sau những thất bại bất chấp sự khinh miệt của người Anh. Để tiếp tục kiểm soát cái chính phủ vừa mới tái cơ cấu của mình, John II đã từ bỏ lối sống lưu động giống như của Philip VI-cha của ông và dành phần lớn thời gian của mình sống ở trong hoặc gần Paris. Ông cũng đã chọn ra ba Giáo sỹ cao cấp ( giáo sỹ là tầng lớp trí thức của châu Âu thời Trung cổ ) từ tầng lớp quý tộc để làm việc như những nhà lãnh đạo quân sự và giúp đỡ ông trong việc tiến hành cải cách tổ chức trong thời gian các hiệp định ngừng bắn với nước Anh được kéo dài. Tất nhiên là không phải tất cả các chính sách mới của vua John đều là đúng đắn chẳng hạn như vào năm 1352 ông đã gả con gái của mình cho vua Charles của Navarre – vốn được biết đến trong lịch sử như là Charles the Bad ( gã tồi tệ). Sự kiện này sẽ gây ra một loạt các vấn đề nghiêm trọng trong tương lai từ Charles của Navarre vì ông này cho rằng mình có quyền lên ngôi vua của nước Pháp.

Vào năm 1355 khoảng thời gian tồi tệ nhất của bệnh dịch hạch đã qua và vương quốc đang ở giai đoạn phục hồi. Tuy nhiên, quân đội dã chiến của Pháp trong những năm của thập kỷ 1350 nhỏ hơn một cách đáng kể hơn so với chính nó hồi ở Crécy. Theo các cải cách của vua John II, quân đội thu nhỏ lại hơn nhưng vẫn cần phải có hiệu quả hơn. Ví dụ, năm 1351 nhà vua ra lệnh rằng tất cả các tay nỏ đang phục vụ cho ông được cung cấp với một chiếc dây cu roa để tăng sức mạnh và kích thước vật lý của cây nỏ. Ở những nơi khác, hình thức phòng thủ truyền thống của các đô thị đã bị lãng quên trong những thập kỷ hòa bình trước khi nổ ra chiến tranh Trăm năm, đặc biệt là ở Poitou nơi mà quân Anh đã tiến hành các cuộc đột kích khốc liệt vào năm 1356 và lên đến đỉnh điểm là trận Poitiers. Bằng những nỗ lực đáng kể đã được thực hiện để phục hồi và cải thiện hệ thống guet, arrirere-guet ( tiếng Pháp nên chịu ) và hệ thống phòng thủ ở các thành phố và thị xã. Ví dụ như ở Chatellerault những guetteur hoặc `đài quan sát ‘ là những người được đề cử bởi hội đồng thành phố để canh chừng trên chiếc đồng hồ từ tháp chuông của nhà thờ thánh St. Jacques. Đáng buồn là những nỗ lực này tỏ ra quá chậm và không hiệu quả để có nhiều ảnh hưởng vào năm 1356. Tương tự, những cố gắng để tăng cường hệ thống công sự ở đô thị và các lâu đài có rất ít ảnh hưởng và nhiều sử gia đã đổ lỗi cho thất bại vào các cải cách của vua John và sự ‘phản bội’ của các tầng lớp quý tộc trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự vì họ đã tỏ ra ích kỷ, chỉ tìm cách bảo vệ quyền lợi cá nhân, bè phái và vô kỷ luật.

Trong khi đó tại Anh có ít nỗ những lực cải cách hơn vì quân đội Anh đã chứng tỏ được tính hiệu quả của họ. Trong thực tế những thành công ban đầu của vua Edward đã được nhìn nhận như bằng chứng của sự hỗ trợ của Chúa cho sự nghiệp của ông. Sau khi trận chiến Crécy kết thúc, Joltn Erghome của Yorkshire đã viết: “Thiên Chúa đã ban cho người Anh sức mạnh của vũ khí trong cuộc chiến chống người Pháp vì lợi ích mà họ có trong vương quốc Pháp”… Tuy nhiên sau đó có một mối quan tâm lớn rằng người Pháp sẽ tìm cách lừa người Anh về những khoản chiến lợi phẩm của chiến thắng qua việc ký các hiệp ước hòa bình, các điều ước quốc tế và ngoại giao quanh co. Thậm chí người Anh ngày càng nghi ngờ rằng Giáo hoàng đã ủng hộ Pháp ( có vẻ như đây cũng là một nguyên nhân để người Anh tách riêng ra thành lập Giáo hội Anh giáo ). Cùng với những điều này là nỗi sợ bị người Pháp trả thù bởi vì từ trước đến lúc đó nước Pháp vẫn là một cường quốc lớn và lâu đời.

Vào gần thời gian đó, quan điểm truyền thống của Anh về việc được hưởng lợi từ những chiến thắng ban đầu của họ đã bị thách thức, ít nhất là tại những khía cạnh mà chính phủ Anh đã quan tâm tới, kể cả việc chi phí của các cuộc chinh phạt ngày càng rất lớn. Tuy nhiên, chắc chắn là có một số cá nhân được hưởng lợi từ những chiến dịch thành công. Mặc dù quân đội thời trung cổ là rất nhỏ so với tiêu chuẩn hiện đại và dân số thời trung cổ cũng rất ít nên số đàn ông tham gia quân đội đôi khi tương đương với 10 -> 15 % số nhân lực sẵn có nếu nếu so sánh với thời hiện đại. Ngoài ra ý tưởng cho rằng khi quân đội Anh ra khỏi đất nước của họ thì họ được “người Pháp trả tiền ” là một suy nghĩ sai lầm. Những cuộc chinh phạt Quân sự lớn cần đế một số tiền rất lớn cũng như lừa, ngựa, thức ăn gia súc và phương tiện vận chuyển. Cũng không phải những người đàn ông tham gia vào các chiến dịch này chỉ đơn thuần là những chiến sỹ-những kẻ vô tích sự trong thời bình. Ngược lại, trong họ bao gồm cả một số những người dân có tay nghề cao. Các Lãnh chúa quý tộc bị mất nhiều người thuê đất của họ và những người hầu cận một cách vĩnh viễn nếu họ bị tử trận. Nhưng cái giá phải trả cho bên thua thậm chí còn lớn hơn nhiều. Ngay cả khi có người còn sống sót, tiền chuộc để phóng thích những người bị giam cầm có thể sẽ phá hủy nhiều gia đình một cách vĩnh viễn.

Một thắng lợi lớn cho người Anh trong giai đoạn đầu tiên của Cuộc chiến Trăm năm là việc chiếm đóng Calais trong năm 1347. Sự kiện này giúp cho sự thống trị của người Anh ở Straits Dover thêm vững vàng và để củng cố thắng lợi này chiếc cảng đã được gia tăng dân số bằng người định cư Anh. Các cuộc đột kích của Hải quân Pháp vào bờ biển Anh đã bị triệt phá và sẽ không thể phục hồi cho đến thập kỷ 1370, mặc dù vẫn còn một số cuộc tấn công lẻ tẻ. Một điểm quan trọng tương đương là sự an toàn của tuyến vận chuyển đường biến đến và đi từ nước Anh tới vùng Aquitaine. Tuyến đường biển này sẽ tồn tại một cách an toàn cho đến khi Hạm đội tàu galley của xứ Castilian vốn là đồng minh của người Pháp xuất hiện tại English Channel.

Khi những hoạt động quân sự lớn lại được tiếp tục trong năm 1355, người Anh lại tiếp tục chiến lược trước đây của họ, đó là đột kích một cách sâu rộng vào các vùng Normandy, Brittany và các vùng đất tại tỉnh Aquitaine thuộc sự cai quản của người Pháp và gây ra những hậu quả khốc liệt cho họ. Trong khi vua Edward III của Anh cho triệu tập Nghị viện của ông ta thì vua John II cũng cho mời Etáts Generaux, hay là States General ( một hội đồng quý tộc nhưng chưa phát triển được thành Nghị viện ) vào cung điện của ông. Ngày mùng 1 tháng 9 năm 1355 vua Pháp yêu cầu ra lệnh tổng động viên và trong 10 tháng quân đội của ông đã đạt được một số chiến thắng nhỏ. Về phía người Anh, ba cuộc tấn chevauchée ( càn quét, cướp bóc ) quy mô lớn đã được tiến hành, nhưng chỉ có một cuộc có thể được coi là thành công. Cuộc chevauchée của Vua Edward III từ Calais là một thất bại, trong khi đó cuộc càn quét được chỉ huy bởi Công tước Lancaster tại Normandy cũng tương tự chỉ đạt được những kết quả ít ỏi vì các cuộc đàm phán với Charles Navarre đã bị phá vỡ.

Ngược lại, cuộc hành binh của Hoàng tử xứ Wales từ Bordeaux trên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đến thành phố Narbonne ở đầu bờ Địa Trung Hải đã gây ra thiệt hại rất lớn. Hiệp ước Valonges ký vào ngày 10 tháng Chín năm 1355 đã hoà giải mâu thuẫn giữa vua John II Pháp và vua Charles của Navarre ( dù là chỉ tạm thời ). Sự kiện này được xem như là một mối đe dọa đến lợi ích của người Anh và vì vậy Edward III đã ra lệnh cho con trai ông-Hoàng tử Edward của xứ Wales – người sau này sớm được biết đến như là Hoàng tử đen – khởi động một cuộc chevauchee lớn qua các vùng đất của Jean d’Arrnagnac, một người ủng hộ chính của vua John II ở phía tây nam nước Pháp. Trước khi đoàn chinh phạt này xuất quân vua Anh đã cho triệu tập Nghị viện mà nội dung của cuộc họp theo Chandos Herald là: ” Tất cả đã đồng ý để cử Hoàng tử xứ Wales tới xứ Gascony, bởi vì ông này rất nổi tiếng ở đó và tấn phong cho ông ta ngay lập tức để ông có thể lên đường với các chỉ huy là những quý tộc như Bá tước Warwick, Bá tước Salisbury, Bá tước Suffolk / Ufford, Bá tước Oxford, Bá tước Stafford, Sir Bartholomew de Bulghersh, Sir John Montagu, Lord Despenccr, Lord Mohun, Reginald Cobham, cùng với Chandos và Audley là hai có người có danh tiếng lớn được bổ nhiệm làm cố vấn …” Sau đó hầu hết các quý tộc này đều nổi bật trong trận Poitiers.

Vào cuối tháng 9 năm 1355, khoảng 1000 kị sỹ, 1.000 con ngựa, 300-400 bộ binh cung thủ và 170 tay giáo người xứ Wales đã khởi hành trước để đi Plymouth. Hòang tử cũng đã “giao kèo” với vua Edward để được cung cấp thêm 433 kị sỹ, 400 con ngựa thiết giáp và 300 bộ binh cung thủ, ông cũng cần ít nhất 833 con ngựa ngoài những con ngựa của các chỉ huy, của đoàn tùy tùng của họ và nhân viên hành chính cần thiết chứ không đề cập đến những toa xe và súc vật để chở hành lý. Một số kị sỹ được phép mua ngựa ở Gascony và những con ngựa để thay thế cho những con sẽ bị giết trong chiến đấu cũng được tìm ở đó, tất cả đều được định giá trị bởi vị Nguyên soái của Bordeaux. Những con ngựa được vận chuyển trực tiếp từ Plymouth đã chắc chắn được ‘thẩm định’ (giá trị) và đánh dấu bởi John Gevncourt và các trợ lý của ông, trong khi hai chiếc phà khác dùng để chở quân và Larnbkyn Sanddler cung cấp một số đồ trang bị cho chính ngựa của Hoàng tử xứ Wales.

Vì các trang bị quân sự phù hợp rất hiếm có ở Aquitaine, mà phần nhiều chúng được gửi đến từ nước Anh. Theo quấn sổ ‘Đăng ký’ hoặc văn bản chính thức của Hoàng tử đen, Robert Pipot của Broukford đã được cử quay trở lại nước Anh: để mua cho ông ta (Hoàng tử xứ Wales ) một ngàn cây cung, hai ngàn sợi dây cung và bốn trăm bó tên, nhưng đã không thể mua được tên ở Anh vì nhà vua ( Edward III) đã cho tịch thu để sử dụng tất cả các mũi tên có thể được tìm thấy ở đó, lúc này Hoàng tử phải cử Robert đến từng phần của thành phố Chester để bắt giữ chính những Fletcher [ những thợ thủ công chế tạo tên] để tiếp tục sản xuất tên cho Hoàng tử cho đến khi nhu cầu của ông này về các mũi tên được thỏa mãn. Hoàng tử cũng cử người đến Lincoln để tìm mua cung tên và Cornwall để tìm ngựa cho các cung kị của ông.

Khi Hoàng tử đen đến được Bordeaux trong năm 1355, một số lãnh chúa quan trọng ở địa phương đã đến gặp ông: Đó là hoàng thân d’Albret, Lord Montfferat, Mussidan, Roson, Curton và Amenien de Fossard và Đại Lãnh chúa của Pommiers và rất nhiều các hiệp sỹ quý tộc cùng với Lord Lesparre. Kết quả là khi quân đội của Hoàng tử khởi hành vào ngày 05 tháng 10 họ có sự tham gia của rất nhiều binh lính ở địa phương xứ Garcon, bao gồm cả viên đại úy de Buch. Cuộc chevauchée tiếp theo có thành tích rất đáng ghi nhận, họ ( liên quân Anh & Gascon ) hành quân trên 1.100 km (684 dặm) từ Bordeaux đến Narbonne và quay trở lại. Thậm chí Hoàng tử Edward còn định tấn công cả Toulouse nhưng việc này đã được chứng tỏ là quá khó khăn không có các dụng cụ bao vây thích hợp.

Thay vào đó, Hoàng tử vội vã vượt qua các con sông Ariege và Garonne sau đó gây sức ép vào hướng đông-những khu vực trước đây chưa bị chạm tới, quân đột kích của ông đã gây ra những thiệt hại rất lớn cho vùng này. Ngay cả những vùng ngoại ô của Carcassonne đã bị đốt phá, mặc dù các thành lũy và tòa thành của nó là không thể công chếm. Những gì tương tự cũng đã xảy ra tại Narbonne nơi mà sự kháng cự của tòa thành đã thuyết phục Hoàng tử xứ Wales rằng đây là thời gian để rút lui. Quân đội của ông bắt đầu tiến hành rút lui một cách thành công bất chấp trời mưa to, con đường qua Noddy và con sông Garonne bị ngập lụt họ vượt qua chúng một cách an toàn.

Hơn 500 khu dân cư, làng mạc và thị trấn được cho là đã bị đốt phá trong cuộc chevanchée của Hoàng tử đen trong năm 1355, và chiến dịch này đã trở thành một thảm họa cho vùng Languedoc ở miền nam nước Pháp ngay sau bệnh dịch Black Death. Hơn nữa quân đội Pháp đã bị suy yếu do có sự bất hòa giữa Bá tước Armagnac và vị Nguyên soái của vua. John II ở trong khu vực này, khiến cho họ không thể chống lại các cuộc hành quân chevanchée của Liên quân Anh-Gascon. Mặt khác quân đội của Hoàng tử đen bị mất quá nhiều ngựa: điều này được đổ lỗi khoảng cách hành quân quá xa. Trong thực tế tỷ lệ tiêu hao có lẽ bởi vì những con vật này đã không được nghỉ ngơi đầy đủ sau khi đến từ nước Anh và do đó chết vì bị lây sốt hoặc vì kiệt sức.

Sau cuộc tấn Narbonne của mình, Hoàng tử đen đã trú đông tại Bordeaux và quân đội của ông được chia làm bốn phần đóng tại các thành lũy, hoặc các thị trấn có tăng cường phòng thủ như La Réole, Sainte-Foy, Saint-Emilion và xung quanh Libourne. Đại úy de Butch, Chandos và Audley trú qua một phần mùa đông ở trong doanh trại mở và một phần tiến hành giao tranh xa hơn với quân Pháp ở xung quanh thị trấn Agen, Cahors và Porte Sainte-Marie, thậm chí họ còn tấn công cả vào lâu đài Perigueux.

Đáp lại thì quân đội Pháp đã tận dụng mùa đông năm 1355/56 một cách thành công và chiếm lại hơn 30 thị trấn và tòa lâu đài. Tuy nhiên, tin tức nhà vua Pháp đang huy động tiền để có một quân đội để đối phó với người Anh đã dẫn đến việc đồng tiền của Pháp bị mất giá một cách thảm hại. Sau đó còn tệ hơn nữa là việc John II lại cãi vã với vua Charles của Navarre và trong tháng 4 năm 1356 nhà vua đã tống ông này vào tù với tội phản quốc. Vì là vua của vùng Navarre-Charles là thành viên của Hội đồng quý tộc cao cấp của Pháp và có những vùng đất rộng lớn nằm trong lãnh thổ Pháp. Kết quả là Philip-em trai của Charles de Navarre đã thành lập một liên minh với vua Edward III của Anh. Sự kiện này đã mở ra những lợi thế về mặt chiến lược cho người Anh không chỉ ở phía tây nam nước Pháp mà còn ở cả miền Bắc nơi mà Philip đang nắm giữ những vùng đất đai lớn. Lúc này nhà vua Pháp không thể triển khai tấn công để phản ứng lại liên minh của Philip với kẻ thù, trong khi đó người Anh đã có một lý do để tấn công vì những tài sản của Philip de Navarre bị đe dọa.

Trong tháng 01 năm 1356 Hoàng tử đen đã tiến hành các cuộc tấn công để duy trì áp lực lên người Pháp ở Aquitaine. Bá tước của Warwick hoạt động trong vùng thung lũng Garomle, đi ngược dòng từ La Reole rồi chiếm Tortneins và Lairac. Các Bá tước Suffolk, Oxford và Salisbury đã dẫn đầu những cuộc đột kích đối vào Notre Dame de Rocamadour, trong khi Bartholomew de Burghersh tiến hành đột kích xa tới tận Cognac và Saintonge. Đại úy de Buch cũng hoạt động trong vùng này và lập các đơn vị đồn trú tại Rochefort, Tonnay và Taillebourg.

Sau đó Chandos và Audley rời Libourne đến thung lũng Garonne tới tận Agen, vùng này vốn được bảo vệ bởi chính Jean d’Armagnac. Tuy nhiên, vị chỉ huy quân Pháp này chỉ ở lại bên trong thị trấn được bảo vệ trong khi quân Anh tiến hành tàn phá vùng xung quanh sau đó đột kích đến tận Cahors và Porte Sainte-Marie trước khi hướng về phía Bắc tới tận Périgod. Tại đây Bá tước của Perigord đã lo sợ về một cuộc tấn công của quân Anh và yêu cầu anh trai của mình-Đức Hồng Y Talleyrand nhờ Đức Giáo Hoàng thuyết phục người Anh rời khỏi thành phố của ông. Hoàng tử Đen đã được hứa hẹn là sẽ được trả rất nhiều tiền nhưng ông này đã bị từ chối và nói rằng việc của ông là để tiến hành trừng phạt những người đã ‘nổi loạn’ chống lại quyền lực của cha ông ta tại Aquitaine. Sau đó Perigueux đã bị bắt bởi Đại úy de Captal Buch và thiết lập một lực lượng đồn trú trước khi Đại úy lại đi đánh chiếm nhiều khu vực phía đông của Saintonge.

Danh sách những vị trí bị người Anh chiếm đóng trong thời gian này là rất dài đến tháng 5 năm 1356 có tới hơn 30 thị trấn và lâu đài đã bị người Anh chiếm, đây là những vùng vốn thuộc về một phần của ‘đế chế’ Angevin tại vùng Aquitaine, đã được “phục hồi” dưới sự cai trị của Vương quyền Anh. Và một điều quan trọng đáng kể là Hoàng tử Edward đã giành lại lòng trung thành của rất nhiều lãnh chúa người Gaston. Các lãnh chúa này đã cung cấp người cho cuộc Chevauchée mà cuối cùng đã dẫn đến trận Poitiers. Điều quan trọng hơn là có nhiều lãnh chúa ở vùng biên giới phía tây bắc của vùng người Anh cai trị ngả về phía họ. Tại đây những người như Durfort, Caumont, Galard và D’Albret được xem như là những người gió chiều nào che chiều đó về chính trị, điều này cho thấy thái độ và sự đồng cảm của tầng lớp quý tộc người Garcon ở địa phương. Tuy nhiên người Pháp vẫn còn nắm giữ một số đơn vị đồn trú ở phía tây của sông Garonne, ở sâu bên trong vùng lãnh thổ này- vùng vốn bị thống trị bởi hoặc người Anh hoặc lực lượng ủng hộ người Anh.

Những đội quân tiếp viện khác được yêu cầu gửi tới từ nước Anh vào đầu năm 1356, điều này được thể hiện ở trong một bức thư của Hoàng gia ( Anh ) còn sót lại, bức thư đã chỉ thị cho Trung úy của Tòa án Tư pháp và Viên thị thần của quận Chester “… đến nổi mà nhà vua đã ra lệnh gửi cấp tốc ba trăm cung thủ cho Hoàng tử xứ Wales tại Gascony từ đại đội của Sir Richard de Stafford và khoảng hai trăm trong số họ đến từ quận Chester và một trăm người còn lại đến từ những nơi khác theo yêu cầu, đây là hai trăm cung kị tốt nhất mà họ tuyển chọn được…”. Mười ngày sau đó một mệnh lệnh khác yêu cầu 300 cung thủ tăng cường nữa được thêm vào con số này. Những tuyển dụng khác cho cuộc viễn chinh của Hoàng tử đen trong năm 1356 đã thu hút người từ Westmoreland, Yorkshire và thậm chí cả từ nước Đức.

Vào đầu mùa xuân 1356 có lệnh trưng thu những con ngựa mới cho đội quân của Hoàng tử xứ Wales. Súc vật thồ hoặc ngựa kéo xe được đặt mua và Cornwall-người nhận trách nhiệm thu mua của Hoàng tử đã đặt mua 30 con vật có khả năng mang hành lý cao nhất sẵn có cũng như cung cấp 30 người giữ ngựa. Tương tự các Bá tước của Warwick, Suffolk, Salisbury, Oxford và Stafford có những con ngựa khỏe mạnh được gửi từ nước Anh trong hai chiếc tàu vận tải vốn được để dành để chở súc vật và thực phẩm của họ. Trong khi đó súc vật, thực phẩm cũng đang được trưng thu cho chiến dịch của Công tước Lancaster tại Normandy, do đó rõ ràng ngựa và các sản phẩm từ nông nghiệp của nước Anh đang được kéo tới giới hạn. ( Sau này ngựa và lương thực của luôn được nhập khẩu từ các nước thuộc địa của họ)

CHỈ HUY CỦA CÁC BÊN ĐỐI ĐỊCH 

Chỉ huy của người Anh

Edward-Hoàng tử đen là chỉ huy chung của các cuộc tấn công lớn hoặc chevauchée vốn lên đến đỉnh điểm là trận Poitiers. Ông vốn được sinh ra tại Woodstock vào ngày 13 tháng 6 năm 1330, ông là con trai cả của vua Edward III của nước Anh và Philippa của Hainault, ông được chỉ định làm Hoàng tử xứ Wales vào ngày 12 tháng năm 1343 và qua đời ở Westminster vào ngày 8 tháng 7 năm 1376, một năm trước khi người cha của ông qua đời. Là người thừa kế ngai và.ng Anh quốc, ông đã phải gánh vác những nhiệm vụ lớn lao từ khi còn nhỏ, ông trở thành Bá tước của Chester từ lúc 3 tuổi, Công tước của Cornwall vào lúc 6 tuổi. Năm 1338 Hoàng tử trở thành biểu tượng của “Người giám hộ của chế độ ” trong suốt cuộc xâm lược đầu tiên của Vua Edward III vào nước Pháp. Ông bắt đầu tham gia vào cuộc Chiến tranh Trăm năm từ năm 1345 và chỉ một năm sau đó Hoàng tử Edward đã giành cho chính bản thân ông chiếc “ Đinh thúc ngựa “ trong trận chiến Crécy nơi ông chỉ huy đội quân tiên phong của người Anh. Có thể ông có được biệt hiệu Hoàng tử Đen là do sự tàn nhẫn của chính ông trong chiến dịch Narbonne năm 1355. Tuy nhiên Hoàng tử đen thực sự có được danh tiếng về mặt quân sự một cách thần túy sau chiến thắng của ông tại trận Poitiers, trong khi cá nhân của ông cũng được hưởng lợi trước những cư xử nghĩa hiệp của ông với vua Pháp vốn bị bắt làm tù binh. Mặc dù được người đương thời ca ngợi như là một “hiệp sĩ hoàn hảo”, danh tiếng về sự mã thượng của Hoàng tử đến từ lại đến từ các giải đấu hơn là từ chiến tranh. Rõ ràng là ông thiếu kỹ năng để trở thành người cai trị ở Aquitaine và không bao giờ nhận được sự ủng hộ chính thức của giới quý tộc xứ Gascon. Năm 1370 Hoàng tử Đen bị ốm nặng và phải tiến hành chiến dịch cuối cùng của ông trong khi được mang trên một chiếc cáng. Việc ông đối xử một cách dã man cư dân của thành phố Limoges trong thời gian chinh phục của cuộc viễn chinh này đã làm cho danh tiếng của ông bị suy giảm mạnh. Tuy nhiên danh tiếng của Hoàng tử Đen đã được sùng bái như những Anh Hùng một cách phổ biến trong các tầng lớp hiệp sĩ Anh và Pháp trong thế kỷ 15.

Các quý tộc cao cấp chỉ huy các đơn vị khác nhau của quân đội của Hoàng tử Đen trong các chiến dịch của năm 1356. Một trong số đó là Thomas Beauchamp-Bá tước của Warwick-ông được sinh ra trong khoảng năm 1 313 hoặc 1314. Các kinh nghiệm quân sự đầu tiên mà ông có được là trong các cuộc chiến tranh với người Scotland ở thập kỷ cuối những năm 1330. Được bổ nhiệm làm Thống chế của Anh quốc vào năm 1344-> 1346, ông đã chiến đấu ở Crécy và tham gia cuộc bao vây Calais. Năm 1352 Bá tước Warwick đã trở thành đô đốc của một Hạm đội tại phía tây nam nước Anh, ông đã được phong làm nguyên soái trong đạo quân của Hoàng tử đen trong năm 1355 -> 56 và đã chiến đấu tại Poitiers, nơi ông bắt tù binh Giám mục của Sens. Thomas Beauchamp chết vì bệnh dịch hạch tại Calais trong năm 1369.

William Montague-Bá tước Salisbury, sinh năm 1328 ở trong một gia đình đại quý tộc vốn ủng hộ vua Edward III một cách mạnh mẽ. Bản thân William được tấn phong hiệp sỹ cùng với Hoàng tử Edward vào lúc bắt đầu của chiến dịch Crécy. Tuy nhiên, mối quan hệ của vị Bá tước trẻ với Hoàng tử Đen thường rất căng thẳng, đặc biệt là tới số phận của vùng Denbighshire mà cả hai cùng cực kỳ quan tâm. Được chỉ định làm Nguyên soái của quân đội của nhà vua Edward III tại Pháp, ông gia nhập đội quân của Hoàng tử đen tại Aquitaine và đóng một vai trò chỉ huy hàng đầu tại trận chiến Poitiers. Năm 1360 Bá tước Salisbury đã tham gia thương lượng Hiệp ước Bretigny. Trong cuộc nổi dậy của Nông dân ở Anh quốc, ông là cố vấn của Richard II-vị vua trẻ tuổi con trai của Hoàng tử Đen. Người ta cho là vị Bá tước này đã vô tình giết chết người con trai của chính mình trong một cuộc tỉ thí. Trong năm 1397 được phong làm Thống đốc Calais nhưng ông đã chết trong cùng năm đó.

Robert Ufford-Bá tước Suffolk, một trong những chỉ huy giàu kinh nghiệm nhất trong quân đội Anh tại chiến dịch Poitiers. Được sinh ra trong năm 1298, ông kế thừa đất đai của mình mình bởi anh trai của ông chết trẻ. Làm Đô đốc của hạm đội Anh trong năm 1337, ông bị bỏ tù ba năm sau đó ( có thể là do bị bắt làm tù binh ). Sau khi trả được khoản tiền chuộc của mình và được phóng thích, Robert Ufford tham gia chiến đấu tại cuộc bao vây Calais và trận chiến hải quân ngoài khơi Winchealse. Robert Ufford có sự hợp tác chặt chẽ với Hoàng tử Edward kể từ năm 1337 và đi kèm với Hoàng tử đến vùng Aquitaine. Suffolk thường được giao những nhiệm vụ ngoại giao tế nhị bởi vua Edward III và Hoàng tử đen. Ông qua đời năm trong năm 1369.

John de Vere-bá tước Oxford, người tham gia một cách tích cực trong việc điều hành chính phủ Anh trước và sau khi trở về từ Conrpostella trong năm 1332. Người ta cho rằng ông đã tham gia các chiến ở Scotland và phục vụ tại Pháp trong những năm đầu của Chiến tranh trăm năm, ông đã chiến đấu tại Crécy cùng với Hoàng tử Đen trong năm 1355 và đã trở thành cố vấn cao cấp của Hoàng tử Đen tại trận Poitiers. Bá tước Oxford chết trong cuộc bao vây Reims vào năm 1360.

Jean de Grailly III-Đại úy de Buch, vị chỉ huy người Gascon đáng lưu ý nhất trong chiến dịch Poitiers. Gia đình của ông nắm giữ những vùng đất vùng tròng nho làm rượu vang rộng mênh mông ở Médoc. Ông là con trai của Jean de Grailly bố ( hai bố con trùng tên) và Blanche le Foix và là người anh em họ của Bá tước Gaston Phoebus Foix. Ông thừa hưởng danh hiệu đại úy vào năm 1313 và do đó được hưởng nhiều ưu đãi trong Nghị viện của Bordeaux. Ông trở thành trung úy của Hoàng tử Đen trong vùng Aquitaine và tự làm cho bản thân mình nổi bật tại trận Poitiers, ông được tặng thưởng với một tòa lâu đài ở vùng Cognac như kết quả của sự xuất sắc của ông tại trận Poitiers. Sau khi phục vụ tại Phổ như là một Thập tự quân, Jean de Grailly vẫn là một người ủng hộ trung thành của vua Charles của Navarre và đã tham gia vào đàm phán hiệp ước Britigny. Sau lần bị bắt tù binh thứ hai bởi quân đội Pháp, vua Charles V đã từ chối phóng thích viên Đại úy này trừ khi ông ta chịu thề không bao giờ được cầm vũ khí và chống lại nước Pháp một lần nữa. Jean de Grailly từ chối và đã chết ở trong tù trong năm 1377.

Các chỉ huy của phía Pháp

Vua John II-“The Good”. Trước khi trở thành vua John II đã kết hôn với Bonne của Bohemia, đây là con gái của vua Bohemia mù-người đã bị giết chết tại trận Crecy. Tuy nhiên bà này chết vì dịch hạch vào năm 1349, cùng năm đó mẹ của John đã chết. Năm sau John đã đính hôn với Blanche d’Evreux-con gái của vua Navarre, nhưng sau đó chính vua Philip-cha của John lại kết hôn với chính cô gái này. Cuối cùng thì trong năm 1350 Hoàng tử John đã kết hôn với Blanche của Boulogne và vài tháng sau đó ông đã trở thành vua Pháp. John II sớm có được danh tiếng vì gần như liên tục tổ chức các lễ hội và ông đã được danh tiếng này thay vì tạo ra bất kỳ lợi ích cụ thể nào cho triều đình mà ông làm vua, vì vậy mà ông đã kiếm được biệt hiệu vua John ” the Good “. Một số nhà sử học vẫn coi John II như là một người xa rời thực tế và chỉ thấy thời kỳ cai trị của ông như là một thảm họa cho nước Pháp. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy rằng vua John II không phải là kẻ nhỏ mọn ngốc nghếch như định kiến ​​phổ biến, mà dường như ông là người thường bảo trợ cấp và học bổng cho nghệ thuật, đồng thời cũng ra sức tái tổ chức, hoàn thiện lại bộ máy chính phủ Pháp và tăng cường sức mạnh của quân đội Hoàng gia. Cha ông của đã bị đánh bại bởi người Anh ở Crécy, điều này làm cho ông có một quan điểm đánh giá thấp về trình độ quân sự của tầng lớp quý tộc Pháp và kết quả của điều này là Vua John II đã cố gắng để không dựa quá nhiều vào giới quý tộc cao cấp.

The Dauphin hay còn là Thái tử Charles-con trai cả của vua John II (vua Charles V “ The Wise” trong tương lai ) có danh tiếng cao hơn nhiều ( so với vua cha ). Ông kết hôn với Jeanne de Bourbon-người em họ của ông trong năm 1350 nhưng vẫn duy trì một tình nhân tên là Biette Cassinel và được cho là ông có đeo huy hiệu của nàng trên áo giáp của ông. Năm 1355 Charles đã được phong làm Công tước của xứ Normandy, đây là cách ông đã được mô tả bởi hầu hết các sử gia trong trận Poitiers. Sau khi sống sót thoát khỏi trận chiến, the Dauphin đã đến được Paris nơi mà cuối cùng ông đã chứng minh được mình là một trong những nhà cai trị thành công nhất của nước Pháp trong thế kỷ 14. Trước khi trở thành một vị vua trong năm 1364, danh hiệu chính thức của Thái tử Charles là Trung tướng của Pháp quốc và là nhiếp chính trong khi của cha ông bị bỏ tù. Ông cai trị nước Pháp cho đến năm 1380, vào lúc này người Anh đã gần như bị đuổi hoàn toàn khỏi nước Pháp.

Công tước Philip d’Orleans được sinh vào năm 1336, ông là con trai thứ năm của vua Philip VI của Pháp. Sau một thời gian ngắn tham gia vào trận chiến Poitiers, ông là một trong những con tin cao quý được gửi sang Anh để đảm bảo rằng các điều khoản của Hiệp ước Bretigny phải được thực hiện. Năm 1365 vua Edward III đã phóng thích Duc d’Orleans, vì người ta cho là do ông đã trở thành bạn thân của Thomas-con trai út của Edward. Ông qua đời mà không có người thừa kế.

Arnoul d’Audrehem-ngày sinh vào khoảng năm 1305 và các chiến dịch đầu tiên mà ông tham gia để chống lại người Anh là ở Scotland trong năm 1335. Năm 1342 Audrehem được bổ nhiệm làm Đại úy của Brittany và bị bắt tù binh tại Calais trong năm 1347. Sau khi được phóng thích, ông đã được phong làm một trong những Trung úy của nhà vua vào năm 1351 và hàm Thống chế trong năm 1353. Ông vẫn là một trong những Nguyên soái trong quân đội Pháp khi bị bắt làm tù binh trong trận Poitiers. Sau đó ông phục vụ như là một sứ giả của vua John II vốn bị giam trong tù và được cử đi để huy động tiền chuộc cho nhà vua. Mặc dù Audrehem tiếp tục đóng một vai trò quan trọng về mặt ngoại giao, ông vẫn tiếp tục tham gia chiến đấu với người Anh tại Najera và lại một lần nữa bị bắt tù binh. Sự kiện này dẫn đến một “ Phiên tòa của tinh thần mã thượng “ bởi vì ông này vẫn chưa trả hết tiền chuộc mình sau khi bị bắt tại Poitiers. Vua Charles V đã tuyển dụng Arnoul d’Audrehem như là viên quan giữ các Cổng thành của Paris cho đến khi ông này qua đời vào năm 1370 hoặc 1371.

John de Clermont là con trai của Lãnh chúa của Thorigny. Ông đã phục vụ trong các chiến dịch ở Flanders và Hainault năm 1340 và một lần nữa ở Avignon và Languedoc. Ông đã được thưởng tước hiệu Lãnh chúa của Boomont và Chantilly. Clermont được bổ nhiệm làm Thống chế của Pháp vào năm 1352. Ông đã bị giết chết tại trận Poitiers.

Gautier IV de Brienne vốn có một sự nghiệp thành công và thất bại rất bất thường, ông kế thừa danh hiệu Công tước xứ Athens tuy lớn nhưng vô nghĩa và sống như một người tị nạn tại triều đình Angevin của xứ Napoli từ rất sớm. Ông đã kết hôn với một cô cháu gái của Vua Robert của Napoli và đã tham gia vào các chiến dịch không thành công để thu hồi lại Athen-tài sản của ông. Mặc dù đã tham gia vào những chiến dịch đầu tiên của Chiến tranh Trăm năm, Gautier de Brienne đã được phong làm người cai trị hữu danh vô thực ở Florence và Pisa năm 1341. Chẳng bao lâu sau đó ông đã bị buộc phải ra đi và quay trở về Pháp. Sau những cố gắng không thành công để giành lại vị thế của mình tại Ý, ông đã quay trở về Pháp vào năm 1355 và đã được phong làm Nguyên soái của vua John II, đây là chức vụ mà ông đang giữ khi bị giết chết tại trận Poitiers.

Quân đội của các bên đối địch

Có rất ít thay đổi trong những đặc điểm cơ bản của quân đội Pháp và Anh trong những năm giữa các trận đánh Crécy và Poitiers. Lực lượng cơ bản của cả hai bên vẫn là các kị sỹ bao gồm cả hiệp sĩ và hộ sỹ, lực lượng cung thủ bao gồm cả cung thủ trường cung và các tay nỏ và các loại bộ binh khác nhau. Bình thường thì lực lượng kỵ binh có nghĩa là kị binh ” hạng nhẹ”, điều này phản ánh một thực tế rằng các kị sỹ và ngựa của họ đã được thiết giáp nhẹ hơn vì có khác biệt trong các nhiệm vụ được giao ( lúc này có lẽ kị binh không còn làm nhiệm vụ đột kích tạo cửa mở nữa ). Một tỷ lệ đáng kể các cung thủ thiện chiến nhất và các bộ binh khác cũng được cưỡi ngựa, mặc dù họ thường sẽ chiến đấu trên bộ.

Thời kỳ này cũng được mô tả như là sự lên ngôi của bộ binh. Bất chấp việc kỵ binh chiếm ưu trong hàng thế kỷ thì Thực tế những đặc điểm cơ bản của chiến thuật quân sự thời đó vẫn là kị binh vẫn thường không có hiệu quả khi phải tấn công vào một vị trí phòng thủ ổn định của bộ binh. Thành công của người Anh trong buổi đầu của cuộc chiến Trăm năm trước chiến tranh đến lực lượng bộ binh được đào tạo thích hợp cùng với các cung thủ trường cung. Tuy nhiên, bản thân các tay cung cũng không đủ lực để giành chiến thắng trong các trận đánh như Crécy hoặc Poitiers. Những chiến thắng này bắt nguồn từ việc kết hợp một cách hiệu quả các tay bộ cung với các lực lượng bộ binh khác cùng với lực lượng kị binh-những người có thể chiến đấu trên bộ hoặc trên lưng ngựa.

Mặc dù các hiệp sĩ và hộ sỹ thường được gọi chung là kị sỹ, tầm quan trọng của giới hiệp sĩ vẫn còn được duy trì một cách đáng kể, đặc biệt là trong các tình huống cần có “tinh thần và khả năng lãnh đạo “. Tuy nhiên, tầng lớp hiệp sĩ vẫn chưa hết sốc ( bị đánh tơi bời bởi các cung thủ bình dân tại Crécy). Nỗi bất bình của họ về việc “ phải di chuyển bằng chân” như nông dân thực sự chỉ tập trung các vấn đề phương tiện vận chuyển hơn là chiến đấu. Các kị sỹ cũng thường phải quan tâm và chăm sóc những con ngựa của họ kể từ khi chúng ( ngựa) chính là dấu hiệu của ” đẳng cấp ” của họ dù là rất tốn kém.

Từ giữa thế kỷ 14 đổ về sau, hơn bao giờ hết các quan chức của Hoàng gia thường trực tiếp kiểm soát các nguồn cung cấp quân sự, dẫn đến một hệ thống được gọi làpurveyance ở Anh hay prise ở Pháp. Còn về binh giáp và vũ khí cũng có ít nhiều thay đổi. Những bộ áo giáp phiến đầy đủ của thời gian này rất có hiệu quả trong cận chiến và chống lại các mũi tên trừ khi họ bị bắn từ cự ly rất gần. Do đó những chiến binh được bọc thép một cách đầy đủ thường có sự tự tin đáng kể về binh giáp của họ. Trọng lượng của thiết giáp có thể sẽ gây ra những mệt mỏi nếu phải mang chúng trong một thời gian dài, nhưng chúng thường được thiết kế hợp lý và không làm mất sự linh hoạt. Khi chiến đấu trên mặt đất những kị sỹ thường mặc áo giáp nhẹ với sự bảo vệ đầy đủ và phù hợp. Vấn đề chính còn lại dường như là khả năng về tầm nhìn và độ thoáng trong tấm giáp bảo vệ mặt.

Vùng duy nhất của châu Âu nổi tiếng trong việc chế áo giáp bằng thép trong thế kỷ 14 là vùng miền bắc nước Ý, Giới tinh hoa của quân đội của cả hai nước Anh và Pháp đã mua một số lượng đáng kể các trang thiết bị quân sự từ Bắc Ý ( cụ thể là thành phố Milan ) trong thời gian xảy ra trận Poitiers. Áo giáp được chế tạo ở những nơi khác có sử dụng nhiều sắt thép, thường dưới dạng áo giáp dạng phiến hay gọi là “brigandines”. Kiểu áo giáp này chắc chắn đã được chế tạo ở Pháp và một tài liệu ở năm 1352 đã ghi lại rằng một người thợ làm áo giáp ở Castelnau-de-Bressac đã chế tạo hoàn thành 60 bộ áo giáp cho thị trấn Cordes. Sau đó áo giáp và vũ khí mà các thị trấn này đặt mua được bán cho các công dân của họ-thường dưới dạng trả góp. Trong khoảng thời gian của trận Poitiers loại áo bông pourpoint ” áo giáp mềm ” hay còn được gọi là jaque đã rất thịnh hành tại Pháp. Nó là chiếc áo được làm từ nhiều mảnh vải rất nhiều cúc và một lớp lót độn. Việc sử dụng áo giáp cho ngựa dường như đã bị từ bỏ ở những thập niên đầu của thế kỷ 14, bất chấp sự hiện diện của tầng lớp kỵ binh quý tộc Pháp trên những con ngựa bọc thép tại trận Poitiers. Mặc dù những con ngựa được thiết giáp nhưng có vẻ như chúng chỉ được bọc giáp ở phần đầu hoặc phần thân trước của những con vật này.

Quân đội Anh

Quấn sổ “Đăng ký” và ” Sổ nhật ký” của John Henxteworth-người giữ nhiệm vụ kiểm soát tài chính của Hoàng tử đen ở xứ Gascony có những thông tin giá trị về các chiến dịch năm 1356. Rõ ràng là Hoàng tử đã nhận được tiền từ Bộ trưởng Tài Chính từ ngày 26 tháng Tư năm 1355 để trả lương cho các kị sỹ và cung thủ vốn đã được gửi đến Gascon. Vị viên chức thu thuế Peter Lacey cũng đã trả £ 7.242 cho các hiệp sĩ và kị sỹ trước khi đoàn viễn chinh khởi hành. Henry Blackburn-người phụ trách bộ phận thu thuế của Hoàng tử Đen, chịu trách nhiệm đảm bảo rằng tất cả những người này phải nhận được tiền lương của họ. Một trong những người này, Hiệp sĩ Sir John de Lisle đã chết trong giai đoạn đầu của chuyến viễn chinh và có báo cáo cho thấy tài các chi phí cho chính bản thân ông ta và đoàn tùy tùng của ông gồm 30 kị sỹ và 30 cung thủ lên tới £ 343,3. Các chi tiết hấp dẫn khác cũng được tìm thấy trong quấn ” Sổ nhật ký” của John Henxteworth, trong đó liệt kê các chi phí khác nhau của hoàng tử Đen, từ các khoản nợ cờ bạc, chi phí sửa chữa chiếc tàu của ông ta bị hư hỏng trong chuyến đi từ Anh và tiền bồi thường thiệt hại cho những tài sản bị cướp phá bởi các binh sĩ xứ Wales ồn ào và ngỗ ngược.

Lực lượng dân binh địa phương người xứ Gascon ( đồng hương của bác lính ngự lâm D’artagnan nhưng lúc này họ đang phục vụ cho người Anh ) đã từ lâu đóng một vai trò lớn trong việc bảo vệ tài sản của người Anh ở phía tây nam nước Pháp, nhưng dường như họ đã không tham gia vào cuộc viễn chinh của Hoàng tử đen trong năm 1356. Những thành phần chính người Gascon trong các cuộc càn quét-chevalchée của Hoàng tử Đen là những kị sỹ và những tay nỏ chuyên nghiệp người địa phương. Rất nhiều người trong số các tay nỏ có thể đến từ miền núi nghèo như vùng Bearn. Quân đội của Hoàng tử đen cũng bao gồm những bidaus và brigarns, đó là những lính bộ binh hạng nhẹ có trang bị những cây lao kiểu truyền thống.

Tất nhiên lời hứa về chiến lợi phẩm, chiến thắng và sự giàu có … là yếu tố rất có ý nghĩa trong việc, tuyển dụng, duy trì quân đội và tiến hành các chiên dịch vào giữa thế kỷ này. Sau khi trận Crécy kết thúc binh lính trở về Anh quốc và làm lan truyền ý tưởng rằng rất dễ dàng trong việc đánh bại người Pháp, một niềm tin được khuyến khích bởi chính phủ của vua Edward III. Hơn nữa sự mong đợi về chiến lợi phẩm thường lôi kéo những hạng người thấp kém, thu hút họ vào quân đội ngay cả khi không được trả lương.

Số lượng của quân Anh trong trận Poitiers là vấn đề còn nhiều tranh cho tới ngày nay, người ta cho rằng mặc dù đoàn quân mà Hoàng tử đen đã chỉ huy từ Bergerac vào đầu Tháng Tám năm 1356 có lẽ là có quân số ít hơn so với ông đã hy vọng. Ban đầu có thể nó có khoảng 7.000 đến 10.500 binh lính: nhóm đông nhất là các kị sỹ, nhóm có số lượng nhỏ hơn một chút là các cung thủ và tay nỏ cộng với 1000 lính bộ binh các loại khác.

Quân đội Pháp 
Quân đội Pháp trong những năm của thập kỷ 1350 đã nhỏ đi đáng kể hơn so với chính họ vào phần đầu của Chiến tranh Trăm năm, mặc dù sự kiện này có nguyên nhân từ vấn đề tài chính chứ không phải là do vấn đề tuyển dụng. Họ thực sự đã có cải thiện về tính kỷ luật, tuy nhiên bạn sẽ chỉ thấy được điều này ở sau trận Poitiers.

Lãnh đạo quân sự vẫn được duy trì theo kiểu truyền thống và rất bình thường khi thấy các giám mục chỉ huy một sô lượng đáng kể binh lính có vũ trang. Ví dụ năm 1356 Guillaume de Melun, vị Tổng-giám-mục của Sens đã dẫn đầu một đoàn tùy tùng gồm 22 chiến binh bao gồm cả Simon de Melun-người em trai của ông cùng với Jean de Beaulieu-hiệp sỹ cầm cờ hiệu và dắt con ngựa chiến trị giá 600 đồng Ecu. Thực tế thì vị Tổng-giám-mục này sẽ bị bắt làm tù binh tại trận Poitiers.

Giới quý tộc Pháp trong những năm của thập kỷ 1350 bao gồm các gia đình quý tộc và hiệp sỹ đã trở thành một giai cấp cha truyền con nối mà các thành viên của nó có quyền được hưởng miễn thuế nhiều nhất và gần như được độc quyền khai thác lợi nhuận từ chiến tranh, trong khi các Đại quý tộc chính của các tỉnh mới là những người có chủ quyền thực sự ở những vùng cực kỳ rộng lớn ( chứ không phải nhà vua ). Có lẽ đã có 40.000 đến 50.000 gia đình quý tộc ở Pháp và do đó giới quý tộc ở Pháp đã tạo nên một tầng lớp hiệp sĩ đông gấp bốn so với tầng lớp này ở nước Anh.

Trong suốt triều đại của Vua John II, một hệ thống mới – Semonce des Nobles – được thiết lập, nó yêu cầu sự phục vụ quân sự từ tất cả các quý tộc, chủ đất phong kiến từ 14 đến 60 tuổi, những người không thể phục vụ phải trả tiền. Loại hình thức ​​tuyển dụng kiểu phong kiến còn lại khác với kiểu trên là fief-rente, đây chính là kiểu phục vụ quân sự để nhận được thanh toán bằng tiền mặt, nhưng có vẻ là kiểu này lại đang suy giảm. Dường như các chỉ huy quân sự người Pháp thường dựa vào một hệ thống hợp đồng, khế ước bằng miệng hoặc bằng văn bản để tuyển quân, đặc biệt là đối với lực lượng kị sỹ. Ví dụ trong năm 1356 đã có sự ủy quyền để tuyển dụng 400 kị sỹ để bảo vệ vùng Auvergne. Người Pháp dựa vào hợp đồng grandes conpagnies (Đại đội lớn ?) để tuyển quân, loại hợp đồng này rất phát triển ở thời của vua John II và Charles V, nhưng chúng vẫn có nội dung rất lộn xộn và chưa được chuẩn hóa vào thời điểm này không giống như hệ thống nhà thầu quân sự của Anh vốn tồn tại lâu hơn và có quy chuẩn hơn nhiều.

Ở khoảng thời gian giữa các trận Crécy và Poitiers người Pháp cũng tuyển dụng các loại binh lính khác nữa. Họ bao gồm những brigains vốn ban đầu là những binh sĩ mặc áo giáp “brigandine” hạng nhẹ được sản xuất tại địa phương ( còn đương nhiên giới quý t

0