Chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp
Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận : ý nghĩa : Khi tính toán hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh ta không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất ...
Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận :
ý nghĩa :
Khi tính toán hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh ta không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước hết lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, các nhân tố này có tác động lẫn nhau. Do điều kiện sản xuất kinh doanh, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ có khác nhau làm lợi nhuận của doanh nghiệp cũng khác nhau.
Ngoài ra quy mô của các doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng khác nhau.
Do vậy để đánh giá một cách đầy đủ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì phải sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận, vì nó biểu hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận và chi phí sản xuất thực tế, thể hiện trình độ kinh doanh của các nhà kinh doanh trong việc sử dụng các yếu tố đó.
Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận :
* Tỷ suất lợi nhuận của vốn :
Đây là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được với số vốn đã chi ra bao gồm các vốn cố định và vốn lưu động.
Tổng số vốn sản xuất kinh doanh bao gồm vốn cố định và vốn lưu động đã chi ra (trong đó vốn cố định là nguyên giá tài sản cố định trừ đi số đã khấu hao và vốn lưu động là vốn dự trữ sản xuất, vốn thành phẩm dở dang, vốn thành phẩm).
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận của vốn cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn sản xuất tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để nâng cao chỉ tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm vốn trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
* Tỷ suất lợi nhuận của giá thành :
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ tiêu thụ.
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả của một đồng chi phí sử dụng trong việc tạo ra lợi nhuận. Điều này cho phép doanh nghiệp tìm biện pháp hạ giá thành để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
* Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu bán hàng :
Là một chỉ số phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, biểu hiện quan hệ giữa tỷ lệ lợi nhuận tiêu thụ và doanh thu bán hàng.
Qua công thức cho thấy hiệu quả của một đồng doanh thu thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
* Tỷ suất lợi nhuận theo lao động :
Là so sánh giữa tổng lợi nhuận với số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh hoặc với tổng chi phí về tiền lương (tiền công) sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quản lý và sử dụng tốt lao động trong doanh nghiệp theo các hợp đồng lao động.
Các biện pháp về doanh thu :
Tăng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ theo nhu cầu thị trường :
Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường rất đa dạng và phong phú, dễ biến động do sự cạnh tranh gay gắt giữa các Công ty. Việc tăng lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ theo nhu cầu thị trường sẽ làm tăng doanh thu dẫn đến tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị tốt các yếu tố và điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi, khuyến khích người lao động tăng nhanh năng suất lao động, phấn đấu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa mẫu mã sản phẩm tiêu thụ giá cả phù hợp với người tiêu dùng.
Tăng cường tiêu thụ những sản phẩm có lợi nhuận cao :
Mỗi doanh nghiệp có những mặt hàng tiêu thụ khác nhau thì thu được những nguồn lợi nhuận khác nhau. Đối với những mặt hàng có lợi nhuận lớn thì doanh nghiệp cần phấn đấu tăng lượng tiêu thụ chú trọng vào sản xuất mặt hàng đó nhiều hơn.
Các biện pháp về chi phí :
Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và chi phí khác nhằm tăng lợi nhuận :
Đây là nhân tố quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, giá thành là tổng hợp của nhiều nhân tố chi phí tạo nên bao gồm các chi phí chính như : Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, các chi phí tiền lương, tiền công. Do vậy muốn hạ giá thành sản phẩm cần phải giảm các nhân tố chi phí.
- Biện pháp tiết kiệm nguyên vật liệu : Cải tiến định mức tiêu hao, cải tiến phương pháp công nghệ, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản và tiết kiệm nguyên vật liệu.
- Biện pháp giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm : Muốn giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm cần tăng nhanh năng suất lao động bằng cách cải tiến công tác tổ chức sản xuất, tổ chức lao động áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ người lao động, có chế độ khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động.
- Tổ chức khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa : Để thấy được hiệu quả rõ rệt của sản xuất kinh doanh thì nhất thiết phải làm tốt khâu tiêu thụ sản phẩm. Dù cho sản phẩm có chất lượng tốt như thế nào mà sản phẩm không tiêu thụ được thì sẽ không có lợi nhuận. Cần có biện pháp xúc tiến bán hàng như quảng cáo, khuyến mãi... làm tốt công tác dịch vụ khách hàng.
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả các mặt hàng sản xuất kinh doanh như :
Nhân tố sản lượng sản phẩm tiêu thụ :
Khi các nhân tố khác không biến đổi (nhân tố về giá cả giá thành sản phẩm, thuế...) thì sản lượng tiêu thụ tăng giảm bao nhiêu thì số lợi nhuận tiêu thụ cũng tăng giảm bấy nhiêu. Việc tăng sản lượng tiêu thụ phản ánh kết quả tích cực của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm.
Nhân tố giá bán sản phẩm :
Trong điều kiện bình thường đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì giá bán sản phẩm do doanh nghiệp xác định. Trường hợp giá bán sản phẩm thay đổi thường do chất lượng sản phẩm thay đổi. Mặt khác việc thay đổi giá bán cũng do tác động của nhu cầu thị trường quan hệ cung cầu, của cạnh tranh... là tác động của yếu tố khách quan.
Nhân tố mặt hàng tiêu thụ :
Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ liên quan tới mức lỗ lãi khác nhau nếu tăng tỷ trọng những mặt hàng có mức lãi cao, giảm những mặt hàng có mức lãi thấp thì sản lượng tiêu thụ có thể không đổi nhưng tổng lợi nhuận có thể vẫn tăng.
Nhân tố giá thành sản phẩm tiêu thụ :
Giá thành toàn bộ sản phẩm là tập hợp toàn bộ các khoản mục chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giá thành sản phẩm cao hay thấp phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng lao động, vật tư kỹ thuật tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc giảm giá thành là nhân tố tích cực ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhân tố thuế :
ảnh hưởng của thuế đối với lợi nhuận. Việc tăng giảm thuế do yếu tố khách quan quyết định do chính sách, luật định của Nhà nước. Với mức thuế càng cao thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng giảm mà doanh nghiệp vẫn phải đóng góp thuế đầy đủ cho Nhà nước.
Quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ trên thị trường :
Thị trường hàng hoá rất đa dạng và phong phú, sự biến động trên thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu hàng hoá và dịch vụ lớn trên thị trường cho phép các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cung lớn. Tạo điều kiện tăng số lợi nhuận.
Trong kinh doanh các doanh nghiệp coi trọng khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ có lãi một cách hợp lý, khuyến khích khách hàng mua với khối lượng lớn. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tìm các biện pháp kích thích cầu hàng hoá, cải tiến phương thức bán hàng.
Chất lượng cho quá trình kinh doanh :
Để cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đạt tới lợi nhuận nhiều và hiệu quả cao. Các doanh nghiệp cần chuẩn bị tốt các điều kiện : Chi phí thấp, giá thành sản phẩm giảm. Do đó cơ sở để tăng lợi nhuận chuẩn bị các đầu vào hợp lý. Ngoài ra cần chuẩn bị tốt khâu máy móc thiết bị, công cụ sản xuất, tổ chức sản xuất quản lý phù hợp.
h) Trình độ :
Sau khi doanh nghiệp sản xuất được sản phẩm hàng hóa và dịch vụ thì khâu tiếp theo sẽ là tổ chức bán nhanh, bán hết thu được tiền về cho quá trình tái sản xuất mở rộng tiếp.
Lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh chỉ có thể thu được sau khi thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Do đó tổ chức tiêu thụ khối lượng hàng hóa và dịch vụ tiết kiệm chi phí tiêu thụ sẽ cho ta lợi nhuận.
Để thực hiện tốt công tác này doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Công tác quảng cáo Marketing...
- Trình độ tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp : là 1 nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình quản lý kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các khâu cơ bản định hướng chiến lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh doanh, phương án kinh doanh. Nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí quản lý. Đó là điều kiện để tăng lợi nhuận.
i) Chính sách Nhà nước :
Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, hoạt động của các doanh nghiệp ngoài việc bị chi phối bởi các quy luật thị trường, các doanh nghiệp còn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế Nhà nước (chính sách thuế, chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái...). Vì chính sách thuế thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, hoặc chính sách tiền tệ thay đổi làm mức lãi giảm đi hay tăng lên ảnh hưởng trực tiếp đến việc vay vốn của doanh nghiệp.