Chấm dứt việc nuôi con nuôi
Điều kiện và thủ tục Các trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi . Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 76, việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 1. Cha mẹ nuôi và con nuôi đã ...
Điều kiện và thủ tục
Các trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 76, việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi.
2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi.
3. Cha mẹ nuôi đã có các hành vi quy định tại khoản 3 Điều 67 hoặc khoản 5 Điều 69 của Luật hôn nhân và gia đình (nghĩa là có hành vi phi đạo đức đối với con nuôi hoặc có hành vi phạm tội liên quan đến các mối quan hệ gia đình hoặc đến người chưa thành niên và đã bị kết án).
Trái lại, quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi không chấm dứt trong trường hợp cha mẹ nuôi hoặc con nuôi chết. Quan hệ cũng không chấm dứt trong trường hợp cha mẹ nuôi ly hôn. Nói khác đi, sau khi cha nuôi hoặc mẹ nuôi chết hoặc cha nuôi và mẹ nuôi ly hôn, con nuôi vẫn tiếp tục là con nuôi của cả hai người; bởi vậy, nếu cha (mẹ) còn sống hoặc, cha, mẹ sau khi ly hôn kết hôn với người khác, thì đối với người khác đó, con nuôi là con riêng của người kết hôn với mình.
Tính không thể phân chia của việc chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi trong trường hợp con nuôi chung của vợ chồng. Trong đa số trường hợp, việc nuôi con nuôi được thực hiện trên thực tế bởi hai người là vợ chồng hoặc chung sống như vợ chồng (Nhắc lại rằng luật hiện hành chỉ thừa nhận việc nuôi chung trong trường hợp hai người nuôi có quan hệ vợ chồng hợp pháp; tuy nhiên, như đã nói, do các quy định trước đây không rõ ràng mà những người chung sống như vợ chồng đã nuôi con nuôi chung trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực vẫn phải được thừa nhận là cha mẹ nuôi chung của con nuôi. ). Luật, khi dự kiến các trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi, cũng chỉ đề cập đến ý chí hoặc hành vi của một bên là con nuôi và bên kia là cha mẹ nuôi (Không có dấu phẩy ngăn cách cụm từ “cha mẹ”. ). Thực ra, có thể hình dung giả thiết, theo đó, ý chí hoặc hành vi đó của người nuôi không phải là ý chí hoặc hành vi chung cha nuôi và mẹ nuôi. Có thể cha nuôi và con nuôi đạt được thoả thuận chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi, còn mẹ nuôi lại phản đối; có thể con nuôi chỉ ngược đãi cha nuôi mà không ngược đãi mẹ nuôi. Thế nhưng, trong khung cảnh của luật hiện hành, một khi con được nuôi chung bởi hai người là vợ chồng, thì việc chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi phải có hiệu lực đối với cả quan hệ cha-con và quan hệ mẹ-con; không thể có chuyện chấm dứt quan hệ cha nuôi-con nuôi mà vẫn duy trì quan hệ mẹ nuôi-con nuôi và ngược lại. Nói rõ hơn, chỉ cần con có hành vi xâm phạm tính mạng của cha nuôi hoặc của mẹ nuôi, chỉ cần cha nuôi, hoặc mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác,..., thì việc chấm dứt quan hệ chung cha mẹ nuôi-con nuôi có thể được xem xét.
Vậy cũng có nghĩa rằng việc chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi bằng con đường thoả thuận, trong trường hợp con được nuôi chung bởi hai người là vợ chồng, chỉ có thể được thực hiện nếu con nuôi đạt được thoả thuận với cả cha nuôi và mẹ nuôi. Ta có ngay quy tắc sau đây: nếu con được nuôi bởi hai người là vợ chồng, thì sau khi một trong hai người nuôi chết, việc chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi, con nuôi bằng con đường thoả thuận là không thể được nữa, bởi không còn cách nào để có được sự đồng ý của người nuôi đã chết.
Người có quyền yêu cầu. Việc chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi không đương nhiên, dù tất cả các yếu tố của trường hợp được luật dự kiến đều hội đủ. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 77:
1. Con nuôi đã thành niên, cha, mẹ ruột, người giám hộ của con nuôi, cha, mẹ nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi;
2. Viện kiểm sát, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại các điểm 2 và 3 Điều 76 Luật này;
3. Cơ quan tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 của Luật này:
a. Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
b. Hội liên hiệp phụ nữ.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trườìng hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 của Luật này.
Thủ tục. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định riêng về thủ tục chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi; bởi vậy, hẳn thủ tục chung về tố tụng dân sự sẽ được áp dụng. Nói chung, việc chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi, dù có hay không có tính chất chế tài, đều phải được tiến hành bằng con đường tư pháp, nghĩa là phải do hiệu lực của một bản án hoặc quyết định của Toà án. Các vấn đề liên quan đến việc chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi, trên nguyên tắc, có thể được xem xét trong một nghiên cứu chung về tố tụng dân sự. Chỉ riêng trong trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi trên cơ sở có sự tự nguyện của các bên, ta có thể tự hỏi: liệu, để Toà án thụ lý, cần có đơn chung của cả hai bên trong quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi hay chỉ cần đơn của một bên ?
Hiệu lực
Hiệu lực tuyệt đối và hiệu lực tương đối. Khi quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt, thì giữa các đương sự không còn quan hệ cha mẹ-con. Người con có thể trở thành con nuôi của người khác. Giữa người nuôi và người được nuôi không còn các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con. Việc chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi chỉ phát sinh hiệu lực về sau: cho đến ngày có hiệu lực của bản án hoặc quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi, quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi vẫn tồn tại; các nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng giữa các đương sự vẫn phải được thực hiện cho đến ngày đó.
Nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, thì Toà án ra quyết định giao người đó cho cha, mẹ ruột hoặc cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 78 khoản 1) ( Trong trường hợp làm con nuôi của người già yếu, cô đơn, thì hẳn sau khi việc nuôi con nuôi chấm dứt, người già yếu, cô đơn cũng phải được giao cho một cơ quan, tổ chức nào đó chăm sóc. Luật chưa có quy định cụ thể ở điểm này. ).
Con nuôi được quyền lấy lại các tài sản riêng của mình (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 78 khoản 2); nếu có công sức đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình cha mẹ nuôi, thì được hưởng một phần tài sản trích từ khối tài sản chung đó, theo thoả thuận giữa các đương sự; nếu không thoả thuận được, thì có thể yêu cầu Toà án giải quyết.
Trong trường hợp con nuôi được đổi tên, họ, thì sau khi việc nuôi con nuôi chấm dứt, cha, mẹ ruột hoặc chính người được nuôi có thể yêu cầu được lấy lại họ, tên cũ (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 78 khoản 3). Cần nhấn mạnh rằng con nuôi chỉ có thể lấy lại họ, tên cũ chứ không được mang họ, tên mới khác.
Thế nhưng, việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa những người đã từng có quan hệ cha mẹ nuôi-con nuôi vẫn bị cấm (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 10 khoản 4). Ta nói rằng trong một số quan hệ riêng tư, việc chấm dứt việc nuôi con nuôi chỉ có hiệu lực tương đối.