24/05/2018, 22:01

Căn cứ lý luận và thực tiễn của chính sách quốc gia về ngoại thương

Về nguồn gốc, căn cứ để xuất hiện hoạt động ngoại thương là hiện tượng phân công chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm giữa các quốc gia. Nhờ sự khác biệt về tính chất, chất lượng, nhãn hiệu, chủng loại sản phẩm và giá cả giữa các nước mà xuất ...

Về nguồn gốc, căn cứ để xuất hiện hoạt động ngoại thương là hiện tượng phân công chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm giữa các quốc gia. Nhờ sự khác biệt về tính chất, chất lượng, nhãn hiệu, chủng loại sản phẩm và giá cả giữa các nước mà xuất hiện nhu cầu cư dân của nước này muốn đổi những hàng hoá của mình với những hàng hoá của nước kia, từ đó thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Lúc đầu trao đổi hàng hoá giữa các nước mang tính ngẫu nhiên, do các thương gia buôn bán lưu động giữa các nước tiến hành trên cơ sở trao đổi những đặc sản của nước này cho nước khác. Phân công lao động lúc đầu cũng mang tính ngẫu nhiên lệ thuộc vào trình độ, tập quán, thói quen và điều kiện tự nhiên ở mỗi nước. Về sau này khi CNTB phát triển mạn, sức sản xuất tăng nhanh mới xuất hiện nhu cầu xuất khẩu như một tất yếu khách quan. Song không phải ngay từ đầu ngoại thương đã được hiểu đúng và vận dụng đúng. Thời kỳ đầu của CNTB, chủ nghĩa trọng thương do quan niệm sự giàu có chỉ là tích luỹ được nhiều vàng bạc (là tiền lúc bấy giờ) nên cho rằng ngoại thương chỉ thuần tuý là bán, là xuất khẩu. Tất nhiên đây chỉ là quan niệm phiến diện vì tất cả các nước đều bán thì còn nước nào mua. Mặc dù chủ nghiã trọng thương đã nhận ra vai trò của ngoại thương đối với việc thúc đẩy sản xuất trong nước song họ chưa tìm ra được cái cốt lõi quyết định tính tất yếu của ngoại thương với tư cách là một hoạt động kinh tế khách quan của con người.

Với lý thuyết lợi thế tuyệt đối , A.Smith đã phát hện ra động lực trực tiếp của hoạt động ngoại thương. Ông cho rằng tự nhiên, lịch sử, văn hoá và nhiều yếu tố khác đã làm cho mỗi vùng, mỗi quốc gia có điều kiện khách quan cho phép sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó với chi phí thấp hơn những vùng, quốc gia khác. Do vậy nếu như mỗi vùng, mỗi quốc gia chỉ chuyên môn hoá sản xuất những hàng hoá có lợi thế nhất và đem trao đổi lẫn nhau thì với môt số lượng lao động như nhau, chuyên môn hoá và ngoại thương sẽ làm cho của cải được tạo ra và tiêu dùng nhiều hơn, tức là ai cũng có lợi hơn nhờ ngoại thương . Cho đến nay, lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của A.Smith vẫn tỏ ra đúng đắn và được nhiều trường phái lý thuyết cũng như giới hoạch định chính sách sử dụng. Tuy nhiên lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A.Smith mới chỉ giải quyết được một phần vấn đề. Trong trường hợp trao đổi ngoại thương giữa 2 nước A và B mà A có lợi thế tuyệt đối với mọi loại hàng hoá so với B thì lý thuyết này tỏ ra bất lực.

Kế thừa lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A.Smith, Ricardo đã hoàn thiện thêm bằng lý thuyết lợi thế so sánh của mình. Theo ông ngoại thương giữa các nước đem lại lợi ích ngay cả khi nước A có lợi thế tuyệt đối ở tất cả các hàng hoá so với B. Bởi vì khi đó quy luật phát triển không đều cũng như do đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội quy định trong một nước cũng có lợi thế và chi phí lao động khác nhau giữa các ngành sản xuất. Ví dụ nước A sản xuất 1 đơn vị quần áo mất 2 đơn vị lao động và sản xuất 1 đơn vị lương thực mất 4 đơn vị lao động; Nước B sản xuất 1 đơn vị quần áo mất 3 đơn vị lao động và sản xuất 1 đơn vị lương thực mất 5 đơn vị lao động. Như vậy nước A có lợi thế tuyệt đối hơn so với B cả về sản xuất quần áo và lương thực. Giả định A và B có nhu cầu sản xuất 2 đơn vị hàng hoá mỗi loại, khi đó:

Nước A phải: sản xuất 2 đ.vị quần áo x 2 đ.vị lao động =4 đ.vị lao động

2 đ.vị lương thực x 4 đ.vị lao động = 8 đ.vị lao động

Nước B phải: sản xuất 2 đ.vị quần áo x 3 đ.vị lao động = 6 đ.vị lao động

2 đ.vị lương thực x 5 đ.vị lao động = 10 đ.vị lao động

Tổng lao đọng chi phí = 16 đ.vị lao động

Nếu nước A chuyên sản xuất quần áo, nước B chuyên sản xuất lương thực, thì kết quả sẽ là:

Với 12 đơn vị lao động nước A sản xuất được 12:2=6 đơn vị quần áo

Với 16 đơn vị lao động nước B sản xuất được 116:=3,2 đơn vị lương thực

B đem bán 1,2 đơn vị lương thực cho A được 1,2 x 4= 4,8 đơn vị lao động và mua được 4,8 : 2=2,2 đơn vị quần áo. Như vậy ngoại thương làm cho B có lợi hơn 0,4 đơn vị hàng hoá (quần áo). Nước A cũng có lợi khi bán 4 đơn vị quần áo chô B thu được 4x3=12 đơn vị lao động và mua được 12:5=2,4 đơn vị lương thực, tăng 0,4 đơn vị lương thực so với mức cũ. Như vậy với lý thuyết lợi thế so sánh D.Ricardo đã giải quyết dứt điểm lợi ích của ngoại thương. Từ thời ông trở đi, vấn đề mở rộng ngoại thương đã tìm được điểm dựa lý luận của nó. Tuy nhiên khi nghiên cứu lý thuyết lợi thế so sánh, Ricardo cũng đặt ngoại thương trong những điều kiện nhất định. Thứ nhất, ông giả định một sự trao đổi sản phẩm tự do theo giá trị (giá trị lao động ), không tính đến sức ép giữa các quốc gia, điều này khó đạt được trong điều kiện thực tiễn; Thứ 2, ông cũng giả định một sự chuyển đổi tiền tệ ngang giá, tự do. Đã có thời kỳ CNTB đã đạt được mức độ gần như thế với chế độ bản vị vàng và hệ thống Breton Wood, song ngày nay, điều này cũng khó có thể thực hiện được do sự bất ổn của nhiều quốc gia. Nhưng dù sao D.Ricardo cũng có công to lớn trong việc tìm ra lý thuyết khởi nguồn cho sự phát triển nền thương mại thế giới dựa trên sự phân công chuyên môn hoá theo lợi thế so sánh nhằm tạo ra một nền kinh tế toàn cầu có hiệu quả. Sau ông, dưới những góc độ nghiên cứu khác, Mác và Lênin cũng đã đề cập đến tính tất yếu cuả ngoại thương. Xuất phát từ nghiên cứu động cơ bòn rút giá trị thặng dư, Mác đã chỉ ra rằng: Sự phát triển của CNTB trong điều kiện cấu tạo hữu cơ tăng và giá trị hàng hoá có xu hướng giảm tất yếu phải đẫn tới phải mở rộng ngoại thương với tư cách như là phương tiện tăng quy mô sản xuất để tăng khối lượng giá trị thặng đư tuyệt đối. ủng hộ quan điểm này của Mác, Lênin khẳng định rằng “mặc dù về mặt chính trị các nước tư bản muốn cấm vận nước Nga Xô viết nhưng về mặt kinh tế họ sẽ không thể làm được điều đó vì chính lợi ích kinh tế của họ cũng như vì lợi thế so sánh của nước Nga”.

Ngày nay các lý luận gia hiện đại một mặt kế thừa và phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo để xây dựng nên các hệ thống lý thuyết ngoại thương khá hoàn chỉnh và đồ sộ, các lý thuyết này dù khác nhau về nhiều vẻ song đều hội tụ dưới tên gọi: Trường phái mậu dịch tự do. Một nhánh khác dựa trên chính sự phản bác giả định của D.Ricardo về một sự trao đổi hàng hoá tự do bình đẳng ngang giá cũng như một hệ thống tiền tệ ổn định, chuyển đổi tự do nhấn mạnh tính khốc liệt, những sức ép phi kinh tế giữa nước mạnh và nước yếu để dề ra chính lý thuyết thương có kiểm soát trên cơ sở bảo hộ. Đó là lý luận của chủ nghĩa bảo hộ.Hai trường phái này luôn tồn tại đồng thời và đấu tranh với nhau.

Quan điểm chủ yếu của trường phái Mậu dịch tự do là cần phải mở rộng cửa tất cả biên giới của các quốc gia theo hướng san bằng tất cả các điều kiện về thuế quan , bãi bỏ các hàng rào phi thuế cũng như sự phân biệt đối sử giữa hàng hoá của các nước khác nhau trên cùng một thị trường. Do vậy chính sách ngoại thương của một nước nào đó cho phép nhà nước can thiệp bằng các công cụ bảo hộ lợi ích cho mình mà lại hại cho người thì sẽ không tránh khỏi phản ứng dây chuyền làm cho nước đó không tránh khỏi bị thiệt hại hơn khi không bảo hộ. Tuy nhiên trường phái này cũng thừa nhận rằng kinh tế thị trường tự thân nó không thể gải quyết được hết các vấn đề. Do đó cần có một sự hợp tác chung trong lĩnh vực ngoại thương, giống như sự can thiệp của một nhà nước toàn cầu vào nền kinh tế thế giới. Từ chỗ thừa nhận như thế, họ cổ vũ cho các lĩnh vực hợp tác ngoại thương có tầm cỡ như Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GAAT) và bây giờ là Tổ chức thương mại thế giới (WTO)…Mặc dù trường phái mậu dịch tự do dựa trên một nền tảng vững chắc là tính tất yếu của ngoại thương trong xu thế phân công chuyên môn hoá toàn cầu, song nó cũng chứa đựng nhiều yếu tố ảo tưởng và bị các nước mạnh lợi dụng. Thứ nhất trường phái này đặt vấn đề tự do trao đổi một cách ảo tưởng trên nền cạnh tranh mãnh liệt giữa các nước có sức mạnh hết sức chênh lệch nhau. Do vậy tự do thương mại mậu dịch biến thành tự do tuồn hàng công nghiệp sản xuất hàng loạt của các nước phát triển vào các nước kém phát triển hơn, và họ lại mua nguyên liệu của các nước này với giá rẻ mạt làm cho cán cân thanh toán quốc tế của các nước yếu luôn ở trong tình trạng mất cân đối và họ trở thành con nợ thâm niên của các nước khác. Bởi vì khi chứng minh lợi ích thương mại dựa trên lợi thế so sánh, D.Ricacdo đã giả định nước yếu hơn(B) luôn bán được hàng cho nước mạnh hơn(A) theo đúng giá trị để có tiền mua được hàng của A. Song trong thực tế thương mại thế giới, vấn đề bán luôn khó hơn mua. Thứ hai, thị trường hối đoái đã hoàn toàn thay đổi, ngày nay không những không có tỷ giá hối đoái ổn định mà trong chừng mực nhất định tỷ giá hối đoái còn là một phương tiện trong tay nhà nước để phục vụ cho những mục tiêu phát triển kinh tế khác nhau. Do vậy trường phái mậu dịch tự do không còn xuất hiện như nguyên nghĩa của nó mà được sửa đổi ít nhiều để phù hợp với thực tiễn.

Ngược lại với trường phái mậu dịch tự do là trường phái (hay chủ nghĩa) bảo hộ. Chỗ dựa cơ bản cho trường phái này là lợi ích và chủ quyền quốc gia. Họ cho rằng lợi thế so sánh là tiềm năng, có thể hiện được tiềm năng đó hay không còn phụ thuộc vào vị thế và tiềm lực của mỗi nước. Một nước nhỏ, lạc hậu thì khó có thể len vào được thị trường của các nước lớn, còn một nước lớn lại có thể dễ dàng đè bẹp nền sản xuất của nước nhỏ bằng quy mô đồ sộ và các lợi thế khác của mình. Quy luật trao đổi đơn giản là để mua thì phải bán được hàng, nếu hàng không bán được mà tài nguyên lại bị vơ vét, khai thác hết thì còn gì để tham gia vào thị trường tự do. Do vậy, theo trường phái này, ngoại thương phải phụ thuộc vào chiến lược phát triển trong nước chứ không thể phó mặc cho thị trường thế giới điều tiết. Họ chủ trương sử dụng mọi công cụ có thể để nâng cao tiềm lực kinh tế quốc gia, kể cả bảo hộ bằng thuế quan và phi thuế quan đối với các ngành non yếu trong nước . Bằng mọi cách phải tạo ra khu an toàn cho các nhà sản xuất nội địa cho dù các ngành này kém hiệu quả so vơí nước khác. Trường phái bảo hộ cũng mang tính hai mặt là tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện ở chỗ nó đề cao vai trò chủ động của nhà nước trong việc đưa nền kinh tế quốc gia theo đúng lộ trình. Nếu bỏ qua vai trò này, các quốc gia sẽ tự phân tán nguồn lực và bị các thế lực cạnh tranh trên thị trường làm cho nhẹ thì suy thoái, mất ổn định, nặng thì bị phá sản. Ngoài ra trường phái bảo hộ còn được sự ủng hộ từ phía tạo ra công ăn việc làm, giảm thất nghiệp trong nước. Mặt tiêu cực của trường phái này thể hiện ở sự hạn chế tính hiệu quả. Chính sách bảo hộ đã tạo ra vành đai khá an toàn trong đó có tình trạng kém hiệu quả do không chịu sức ép thay đổi của sự cạnh tranh, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển, thường các ngành công nghiệp non trẻ hay ở tình trạng độc quyền hoặc kém cỏi cần được kích thích mạnh mới thoát khỏi trì trệ. Do tính hai mặt của nó nên trường phái bảo hộ cũng không còn là cơ sở duy nhất cho chính sách ngoại thương ngay cả các quốc gia bảo thủ nhất.

Ngày nay chính sách ngoại thương của các quốc gia đều dựa trên sự pha trộn của cả lý thuyết bảo hộ lẫn mậu dịch tự do. Tuy rằng cũng có sự khác biệt nhất định do nước này thì thiên nhiều hơn về mậu dịch tự do dù không từ bỏ những khâu, lĩnh vực, trường hợp nào đó; nước khác lại thiên về bảo hộ hơn tuy rằng vẫn tiến hành nhiều hoạt động trao đổi tự do…Việc thiên về phía này hay phía kia không chỉ do ý đinh chủ quan của các chính phủ mà còn do yêu cầu thực tiễn đòi hỏi.

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia

Chính sách ngoại thương là một bộ phận hữu cơ nằm trong tổng thể các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, chính trị của một quốc gia, trong đó chiến lược KT-XH giữ vai trò chủ đạo. Không thể tách dời chính sách ngoại thương theo kiểu thả nổi hoàn toàn cho thị trường tự phát, cũng không thể kiểm soát hoàn toàn bởi nhà nước vì trong thực tế những mô hình kiểu đó đều đã thất bại. Vấn đề lựa chọn mô hình KT-XH-CT như thế nào có ảnh hưởng to lớn đến chính sách ngoại thương.

Về mặt mô hình kinh tế, cho đến nay đã xuất hiện hai loại chiến lược có ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách ngoại thương quốc gia. Đó là chiến lược thay thế hàng nhập khẩu và chiến lược hướng về xuất khẩu.

Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu khá thịnh hành ở nhứng nước đang phát triển vào khoảng những năm 50,60 của thế kỷ XX. Chiến lược này phản ánh xu hướng muốn độc lập về kinh tế của các nước yếu kém, đa phần vừa thoát khỏi là nước thuộc địa. Về bản chất, chiến lược này hơi nghiêng về phía bảo hộ linh hoạt, phù hợp với thực tế là các nước dù muốn độc lập về kinh tế đến đâu thì cũng phải tham gia vào sự phân công chuyên môn hoá ở phạm vi thế giới và do đó không thể phụ thuộc lẫn nhau. Phù hợp với chiến lược này, chính sách ngoại thương được hoạch định theo hướng khuyến khích nhập nguyên liệu, máy móc, thiết bị phục vụ trực tiếp sản xuất trong nước, hạn chế nhập các mặt hàng mà trong nước có thể và cố gắng sản xuất thay thế được. Đây là một chính sách ngoại thương bị động, không hiệu quả,mặc dù nó đã góp phần to lớn trong việc hình thành năng lực sản xuất trong nước cho các nước đang phát triển. Tính không hiệu quả và bị động ở chỗ nó ít dựa trên lợi thế so sánh mà có xu hướng co về sản xuất tự cấp tự túc trong nước. Mặt khác hậu quả của chính sách ngoại thương này là tình trạng mất cân đối cán cân thanh toán quốc tế, đẩy nhiều quốc gia vào cảnh nợ nần, bế tắc. Chiến lược hướng về xuất khẩu có ưu điểm so với chiến lược thay thế hàng nhập khẩu ở chỗ nó tự tìm thấy cân đối thanh toán quốc tế trong quá trình phát triển năng lực sản xuất trong nước. Về cơ bản, chính sách ngoại thương phù hợp với chiến lược này là chính sách ngoại thương tích cực, vừa khai thác lợi thế so sánh, do đó mà có hiệu quả, vừa tận dụng được thuận lợi của thị trường thế giới như cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ,kích thích cải tiến kỹ thuật do cạnh tranh cũng như sự liên kết liên doanh mở rộng tiềm năng sẵn có. Tuy nhiên chính sách ngoại thương hướng về xuất khẩu cũng có hạn chế. Thứ nhất, do nhiều khi phải bán hàng dưới chi phí (do không có lợi thế tuyệt đối) nên nếu xuất khẩu không được sự hỗ trợ của nhập khẩu thì ngành ngoại thương không tìm thấy động lực kinh doanh; Thứ hai để xuất khẩu được thì vấn đề mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là đối với các nước đang phát triển là cuộc cạnh tranh không cân sức giưã người mới, kẻ cũ. Do vậy những nước mới hội nhập quốc tế không thể tránh được nhiều thua thiệt không đáng có…

Ngày nay hiếm thấy một nước nào chỉ áp dụng máy móc một trong hai mô hình chính sách ngoại thương trên, đa phần là mô hình hỗn hợp trong đó đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò chủ đạo. Ngoài ra mô hình chính trị-xã hội mà mỗi quốc gia lựa chọn cũng ảnh hưởng đến chính sách quốc gia về ngoại thương. Trước hết là ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao từ đó ảnh hưởng đến quan hệ thương mại. Ví dụ sự lựa chọn chủ quyền quốc gia và quan hệ láng giềng một cách cứng rắn đã làm cho Irac lâm vào tình trạng bị cấm vận nhiều năm. Hoặc chính sách dung dưỡng các giáo phái, lực lượng khủng bố cũng làm xấu đi quan hệ giữa một số nước, do đó chính sách ngoại thương cũng không thể điều điều chỉnh theo. Rồi các chính sách khác như tiền lương,về trợ cấp sản phẩm xuất khẩu cũng ảnh hưởng đến hoạt động và chính sách ngoại thương.

Vị thế và tiềm năng của một quốc gia trên thị trường quốc tế.

ảnh hưởng này biểu hiện rất rõ ở chính sách ngoại thương của các nước phát triển và đang phát triển.

Tại sao trong vòng đàm phán Seatle về mở rộng tự do hoá thương mại, các nước lại không thể thống nhất với nhau? Đó là vị thế của các nước đang phát triển và các nước công nghiệp phát triển khác biệt nhau, do đó họ không thể áp dụng chung một chính sách ngoại thương. Đối với các nước mạnh (Mỹ, EU) thì một chính sách ngoại thương thiên về mậu dịch tự do sẽ có lợi cho họ bởi họ có các công ty lớn, hàng hoá có chất lượng, giá rẻ và đang cần thị trường tiêu thụ. Chính sách mậu dịch tự do của các nước khác sẽ đem lại lợi thế cho họ về mọi mặt. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển, năng lực sản xuất thường nhỏ hơn, công nghệ lạc hậu hơn, chi phí cao nên khó đánh bại được đối thủ cạnh tranh để tìm được thị trường ở các nước phát triển . Vì lợi ích quốc gia, vì công ăn việc làm, các nước đang phát triển không thể mở cửa hoàn toàn cho mọi hàng hoá của các nước phát triển. Vì thế chính sách ngoại thương của hai khối nước này luôn trong tình trạng vừa phụ thuộc vừa mâu thuẫn nhau. Có thể có ngoại lệ khi xét riêng về lợi ích từng quốc gia thì một sự khôn khéo, linh hoạt khai thác tốt mâu thuẫn này có thể đem lại cơ hội phát triển cho một quốc gia dù nhỏ yếu (Thuỵ Điển là một ví dụ cho chính sách ngoại thương linh hoạt đó). Nhưng nhìn chung chính sách ngoại thương của hai khối nước này không thể giống nhau. Các nước công nghiệp phát triển có xu hướng thi hành một chính sách ngoại thương bành trướng nhằm mở rộng tối đa thị trường tiêu thụ sản phẩm cho họ nhằm tăng sức mạnh xuất khẩu tăng dự trữ ngoại tệ và trên hết là tăng ảnh hưởng kinh tế, chính trị, ngoại giao trên thế giới. Đi liền với chính sách bành trướng ngoại thương đương nhiên là sự nhượng bộ có điều kiện trong việc mở cửa của thị trường nội địa cho hàng hoá của nước khác. Về phương diện này các nước công nghiệp phát triển triển khai khá dè dặt so với hoạt động đa diện để mở rộng xuất khẩu của họ. Và chính lập trường dựa trên lợi ích quốc gia này, mặc dù là họ hết sức che dấu, là nguồn gốc tái sinh mâu thuẫn không dễ giải quyết giữa các quốc gia khác nhau khi đàm phán về chính sách ngoại thương.

Các nước đang phát triển nghiêng nhiều hơn về thi hành chính sách ngoại thương mở cửa có điều kiện. Điều kiện thứ nhất là phải phát triển bằng được ngành sản xuất nội địa non trẻ của họ. Trải qua hàng trăm năm thuộc địa, phụ thuộc các nước đang phát triển thấu hiểu sâu sắc vai trò tiềm năng sản xuất tạo nên tiềm năng ngoại thương. Đặc biệt ngày nay khi khoa học và công nghệ đã phát triển đến trình độ cao làm cho các thế mạnh về tài nguyên có vai trò ngày càng giảm trong TMQT thì một sự mở cửa tự do thiếu thận trọng, thiếu cân nhắc sẽ dần đến hậu quả làm phá sản hàng loạt cơ sở sản xuất trong nước và đẩy nhân dân ra hè phố. Vì những lý do hiển nhiên như vậy nên ngay trong các văn bản hợp tác TMQT như "Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch" (GATT) cũng cho phép các nước đang phát triển có đặc quyền đơn phương bảo hộ cần thiết cho sản xuất trong nước (điều 18). Điều kiện thứ hai là đòi một sự công bằng và trật tự mới trong trao đổi thương mại giữa các nước, đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển. Bởi vì về mặt lịch sử, tích luỹ nguyên thuỷ của các nước tư bản phát triển thời kỳ đầu công nghiệp hoá là dựa nhiều vào vơ vét và bóc lột các nước thuộc địa. Do vậy, viện trợ, giúp đỡ, trao đổi nghiêng về có lợi cho các nước đang phát triển (đặc biệt là vấn đề nợ) không phải là sự cho không của các nước phát triển mà chỉ là sự "trả nợ cũ" mà thôi. Hơn nữa không thể áp dụng cùng một thứ "nguyên tắc thị trường tự do" như nhau với cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Không những cần chống độc quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh của các công ty lớn từ các nước phát triển, mà còn phải có những ưu đãi nhất định cho các công ty của các nước đang phát triển khi các công ty này đang gắng sức mở đường vào thị trường các nước phát triển, một sự ưu đãi như vậy phải được coi như là nghĩa vụ của các nước phát triển. Ngoài ra các nước đang phát triển còn phải tranh đấu chống lại sự phân biệt đối xử giữa hàng công nghiệp chế tạo và sản phẩm sơ chế, đấu tranh bảo vệ lợi thế so sánh về tiền công rẻ trước vũ khí tự do, dân chủ, nhân quyền giả hiệu của các nước lớn. Tóm lại, trước một vấn đề ngoại thương, nếu không nhận thức sâu sắc ảnh hưởng chi phối của vị thế và tiềm lực quốc gia, choáng ngợp trước sự cám dỗ của tự do mậu dịch sẽ dẫn đến nhiều hậu quả kinh tế - xã hội, chính trị khó lường.

Ngày nay, xu hướng liên kết khu vực mạnh mẽ, vị thế lớn hay nhỏ của một quốc gia có thể ít ảnh hưởng hơn đến chính sách ngoại thương so với trước kia. Nhưng ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế, công nghệ, chất lượng hàng hoá vẫn còn nguyên giá trị. Biểu hiện rõ nhất của ảnh hưởng này là sự chênh lệch giá tương đối giữa sản phẩm công nghiệp chế tạo và nguyên liệu, nông sản, khai khoáng thô suốt những năm qua chưa được giảm đi mà còn có xu hướng tăng lên, hoặc một cuộc khủng hoảng nợ của các nước Châu Mỹ la tinh thập niên 80 của thế kỷ 20 hay cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á gần đây cũng chứng minh rằng một nước nhỏ mạo hiểm mở cửa hoàn toàn sẽ hứng chịu tai hoạ như thế nào.

ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế quốc tế đến chính sách ngoại thương quốc gia.

Khởi đầu từ sau chiến tranh thế giới, với hệ thống tiền tệ thế giới Breton Wood và sau này là một loạt cá tổ chức khác như: Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT); quĩ tiền tệ quốc tế (IMF); tổ chức các nước sản xuất dầu mỏ (OPEC); khối thị trường chung Châu Âu (EU); hội nghị của liên hiệp quốc tế về thương mại và phát triển (UNCTAD); Phòng thương mại quốc tế (ICE).. . Các tổ chức quốc tế điều phối hợp tác kinh tế nói chung, hợp tác thương mại nói riêng giữa các quốc gia ngày càng có ảnh hưởng to lớn đến chính sách ngoại thương của một nước. Tuỳ theo tính chất của từng tổ chức mà ảnh hưởng của chúng cũng khác nhau. Hai tổ chức có vai trò điều tiết chung rộng lớn là GATT (nay đổi thành tổ chức thương mại thế giới WTO) và UNCTAD. Văn bản của WTO có vai trò giống như một thứ luật quốc tế bởi nó có qui định khá cụ thể những điều khoản thi hành và trừng phạt. UNCTAD có tính hiệp thương, khuyến nghị nhiều hơn. IMF chủ yếu hỗ trợ ngoại thương bằng việc cho vay để ổn định tiền nội địa. ICE là cơ quan trọng tài, hoà giải các tranh chấp phát sinh… Các tổ chức khác là sự hợp tác khu vực nhằm tạo ra một thị trường tự do hơn trong nội bộ đồng thời bảo hộ với bên ngoài hoặc hợp lực để cạnh tranh với bên ngoài… Vấn đề đặt ra ở đây là với sự xuất hiện của các tổ chức điều tiết thương mại quốc tế như thế thì chính sách ngoại thương của một nước sẽ chịu sự chi phối như thế nào? có thể thấy sự chi phối đó dưới một giác độ như sau: Thứ nhất phạm vi tự quyết của mỗi quốc gia về chính sách ngoại thương sẽ bị thu hẹp ở những phạm vi nhất định tuỳ thuộc quốc gia đó tham gia vào những tổ chức nào. Ví dụ khi tham gia vào WTO một quốc gia không thể tuỳ tiện thay đổi các loại thuế hàng hoá xuất nhập khẩu nằm trong biểu thuế chung (trừ trường hợp các nước đang phát triển có được sự đồng ý của toàn thể các nước thành viên), hoặc tự do đặt ra các hàng rào phi thuế. Chính vì thế khi xem xét việc gia nhập một tổ chức nào đó, mỗi quốc gia cần cân nhắc lợi hại phù hợp với chiến lược phát triển và từ đó mà định hướng hoạch định chính sách ngoại thương.

Thứ hai, sức ép của các thế lực khác nhau đứng đằng sau các tổ chức quốc tế là một điều không thể chối cãi. Chính vì thế trước khi tham gia vào một tổ chức quốc tế nào đó thì chính phủ cần xem xét được mất cho hoạt động kinh tế, hoạt động thương mại để quyết định có nên tham gia hay không thì sau khi tham gia tổ chức quốc tế đó việc duy trì được hay không được một chính sách ngoại thương quốc gia vì lợi ích dân tộc còn tuỳ thuộc sự nhạy cảm, lập trường kiên định và sự linh hoạt khôn khéo của từng chính phủ cũng như sự hiệp lực của các chính phủ theo các khối khác nhau. Chính vì vậy nửa cuối của thế kỷ 20 là sự nở rộ các tổ chức hợp tác khu vực khác nhau như: ASEAN, EU, NAFTA.. Thực tế này làm cho quan hệ thương mại phát triển từ song phương sang đa phương lồng ghép lẫn nhau do đó TMQT ngày càng trở thành lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm về chính trị kinh tế.

Thứ ba, dù rằng thương mại và hợp tác kinh tế quốc tế có phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì động lực của nó vẫn là lợi ích quốc gia trong đó lợi ích của các tập đoàn kinh tế lớn, các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia là chủ đạo. Trước sức cám dỗ của lợi nhuận siêu ngạch hay trước thực tế lợi ích bị xâm phạm, các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia có trăm phương ngàn kế để vô hiệu hoá các qui định chung của các tổ chức hợp tác quốc tế. Thêm nữa với tình hình hiện nay là mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển, giữa các nước phát triển với nhau…. đã dẫn đến một mặt vẫn tồn tại một sự cam kết chung mang tính pháp lý nhưng nhiều khi lại rất hình thức và mặt khác là sự vận động , cọ xát, tranh chấp. Kìm hãm lẫn nhau một cách kín đáo dưới vỏ bọc quyết định của các tổ chức này nọ. Chính vì thế có thể nói ngày nay chính sách ngoại thương ngày càng phức tạp, đôi khi hoà lẫn cả chính sách ngoại giao và chính trị phi hiệu quả chung.

Tóm lại chính sách ngoại thương quốc gia là một tổng thể thích hợp trong nó cả tính khoa học và nghệ thuật, cả về đối ngoại, đối nội, cả các vấn đề kinh tế lẫn chính trị xã hội…. Do đó chính sách ngoại thương không phải chỉ cứng nhắc, hoạch định một lần là xong, mà ngược lại nó phải có sự linh hoạt, nhưng phải ổn định và có định hướng rõ ràng. Hoạch định tốt chính sách ngoại thương sẽ là động lực kích thích nền kinh tế phát triển có hiệu quả

Để thực hiện được chính sách thương mại trong xu thế hội nhập KTQT đạt được các mục tiêu đã định thì cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyyên tắc này dựa trên cơ sở khách quan của quy luật và điều kiện hội nhập, kết hợp vơi điều kiện chủ quan và trình độ phát triển của quốc gia. Đề ra những nguyên tắc này sẽ giúp cho một quốc gia đặc biệt đối với Việt Nam, khi hội nhập chúng ta có rất ít kinh nghiệm và rất nhiều điều mới mẻ. Chúng ta chư thể hội nhập một cách tư do mà phải từng bước, kiên định theo những nguyên tắc đề ra, tránh bị chệch hướng và gặp thất bại.

Một số nguyên tắc cơ bản:

Thứ nhất, kiên trì và ưu tiên cho định hướng xuất khẩu kết hợp với bảo hộ thay thế nhập khẩu có điều kiện.

Thứ hai, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, với kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước cũng như các quy định của các tổ chức mà Việt Nam tham gia.

Thứ ba, lấy việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu, hội nhập quốc tế.

Thứ tư, gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; vừa chú trọng thị trường trong nước vừa ra sức mở rộng và đa dạng hoá thị trường ngoài nước.

Thứ năm kiên trì chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia hoạt động XNK, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Thứ sáu, kết hợp hài hoà những nguyên tắc, yêu cầu của các tổ chức quốc tế đối với chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia thành viên (tối huệ quốc, đối xử quốc gia, giảm dần tiến tới xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan, thống nhất biểu thuế quan, công khai và minh bạch hoá chính sách ...) với các nguyên tắc, phương châm của Việt Nam khi tham gia hội nhập quốc tế .

Chính sách cụ thể

Chính sách mặt hàng

Về mặt ngắn hạn, khuyến khích, huy động mọi nguồn lực hiện có để đẩu mạnh xuất khẩu, tạo việc làm, đạt tăng trưởng cao và thu ngoại tệ, đồng thời kiểm soát có tính toán hàng nhập khẩu theo hướng khuyến khích thay thế nhập khẩu đối với những mặt hàng có khả năng cạnh tranh trong tương lai trên thị trường trong nước .Về mặt dài hạn, tích cực thực hiện các biện pháp chiến lược nhằm chủ động gia tăng các sản phẩm chế biến, chế tạo, dịch vụ, tăng hiệu quả sản xuất và xuất khẩu. Trong chính sách nhập khẩu, trước sức ép của các biện pháp hội nhập đã cam kết, chủ động điều chỉnh các biện pháp chính sách vừa phù hợp với các cam kết hội nhập vừa đạt các mục tiêu phát triển cơ cấu ngành và cân đối nguồn lực trong và ngoài nước.

*Ưu tiên phát triển những ngành sản xuất xuất khẩu

Các biện pháp ưu bao gồm từ ưu đãi về đầu tư, bố trí nguồn lực đến các giải pháp thương mại khuyến khích XK. Các biện pháp khuyến khích ở đây theo phương châm khuyến khích tất cả các ngành hàng XK nhưng về lâu dài phải ưu tiên các ngành có lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh "động" (lợi thế sẽ được tạo ra hoặc hình thành trong tương lai do quá trình phát triển sản xuất, xuất khẩu và cạnh tranh quốc tế). Về mặt hàng căn cứ vào các yếu tố: hiệu quả sản xuất và XK, tạo việc làm, mối quan hệ đầu vào và đầu ra với các ngành khác, khả năng cạnh tranh và phát triển công nghệ, khả năng sử dụng nguyên liệu trong nước, tác động đến cán cán thanh toán...

*Bảo hộ hợp lý và có thời hạn kết hợp ưu tiên đầu tư phát triển các ngành thay thế nhập khẩu

Có thể gọi đó là các ngành công nghiệp non trẻ, nó cần thiết cho nền kinh tế nhưng còn kém sức cạnh tranh về giá cả, mẫu mã, công nghệ có nguy cơ phá sản nếu thực hiện tự do hoá nhập khẩu. Trong giai đoạn tới Việt Nam dĩ nhiên vẫn phải tiếp tục sử dụng các công cụ bảo hộ để phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng, tuy nhiên việc áp dụng các biện pháp này là có thời hạn. Do vậy vấn đề là Việt Nam sẽ lựa chọn những ngành nào và bảo hộ ở mức nào.

Về ngành hàng cần bảo hộ, đó là những ngành mà thị trường nội địa có triển vọng nhu cầu khá cao, đủ sức phát triển sản xuất và có sức cạnh tranh. Ví dụ như ngành sắt thép, lọc dầu, hoá dầu, phân bón, xi măng, sản xuất phụ tùng ô tô và xe máy…Tuy nhiên đây lại là những ngành mà năng lực sản xuất cũng như khả năng cạnh tranh còn kém, muốn phát triển trong dài hạn lại đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Mặc dù vậy khả năng phát triển là hiện thực vì nhu cầu tiềm năng của thị trường nội địa lớn.

Về biện pháp bảo hộ, trong ngắn hạn (một vài năm tới) vẫn cần kết hợp công cụ thuế quan với công cụ giấy phép và hạn ngạch. Trong dài hạn sẽ phải bãi bỏ các công cụ phi thuế quan và các hình thức biến tướng của chúng, do vậy chỉ còn công cụ thuế quan với mức thuế suất giảm dần theo tiến trình hội nhập . Chúng ta cần xây dựng được chiến lược bảo hộ cho từng ngành hàng, mặt hàng cụ thể và chú ý đến các cam kết của các tổ chức mà Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia.

Về biện pháp đầu tư, bảo hộ phải đi đôi với việc đầu tư thích đáng.Năng lực về vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và các doanh nghiệp của Việt Nam còn rất hạn hẹp mà các ngành hàng cần được bảo hộ của ta đa số là những ngành cần nhiều vốn. Do đó phải hoạch định được các biện pháp đầu tư sao cho đảm bảo đủ vốn cho các ngành này, đồng thời phải có cơ chế quản lý, điều hành, lựa chọn phương án đầu tư …đảm bảo cho hoạt động đầu tư thực hiện được theo đúng kế hoạch, có tính khoa học và mang lại hiệu quả tối ưu nhất.

Chính sách đối với xuất khẩu dịch vụ

*Tập trung mọi nguồn lực nâng cao sức cạnh tranh của mọi ngành dịch vụ, tận dụng tốt mọi cơ hội cũng như đối phó với các thách thức do hội nhập quốc tế đem lại. Do tính chất đa ngành trong lĩnh vực dịch vụ nên mỗi ngành cần có chính sách, giải pháp riêng để thực hiện mục tiêu của mình. Các ngành cần chú ý như xuất khẩu lao động, du lịch, vận tải, viễn thông…

*Ưu tiên phát triển các ngành gắn với kết cấu hạ tầng. Sức cạnh tranh của nhiều ngành dịch vụ như bưu chính, viễn thông, du, vận tải…phụ thuộc nhiều vào điều kiện kết cấu hạ tầng và trình độ công nghệ. Vì vậy cần có chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước nhằm phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đủ tiêu chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và các ngành dịch vụ nói riêng.

*Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của dịch vụ. Dịch vụ ngày càng phát triển nhanh chóng cả chiều rộng lẫn chiều sâu và rất đa dạng, đồng thời tiến trình hội nhập quốc tế đòi hỏi từng bước mở cửa thị trường dịch vụ, do vậy môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, nhưng các hình thức bảo hộ đối với nhiều ngành dịch vụ sẽ phải từng bước giảm dần. Vì vậy mỗi ngành dịch vụ đều phải phấn đấu chuyên nghiệp hoá phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế, hạ giá thành để đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vẫn cần sự hỗ trợ, khuyến khích từ phía nhà nước trong đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực kinh doanh và khả năng cạnh tranh quốc tế .

*Khuyến khích mở rộng các loại hình dịch vụ, phương thức xuất khẩu và thị trường xuất khẩu, tận dụng và khai thác thế mạnh về vị trí địa lý của nước ta để phát triển các dịch vụ tạm nhập-tái xuất, chuyển khẩu, chuyển tải, quá cảnh, du lịch….Đa dạng hoá phương thức kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu tạo điều kiện nâng cao giá trị xuất khẩu dịch vụ.

Chính sách thị trường

Trong xu thế tự do hoá, do tác động của các cam kết hội nhập quốc tế và khoa học vực và sự đòi hỏi của một loạt nguyên tắc quan hệ TMQT (tối huệ quốc, có đi-có lại, không phân biệt đối xử, ưu đãi thuế phổ cập..), quan điểm của Việt Nam về cơ bản vẫn là “đa phương hoá, đa dạng hoá, làm bạn với tất cả các nước” và chính sách thị trường của ta sẽ được dổi mới theo hướng phát triển mạnh một số thị trường mới (như EU, Mỹ…), củng cố và điều chỉnh cơ cấu thị trường truyền thống (ASEAN, Nga, các nước Đông Âu…)

Chính sách thị trường nói chung sẽ đổi mới theo các hướng sau:

-Đẩy mạnh các biện pháp phát triển thị trường từ phía nhà nước kết hợp với khuyến khích các doanh nghiệp phát triển thị trường. Do vậy nhà nước sẽ phải đẩy mạnh quan hệ song và đa phương tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp , như đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để thống nhất các tiêu chuản kỹ thuật, đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi quan thuế…

-Tăng cường các biện pháp tìm hiểu và nắm bắt các thông tin về thị trường nước ngoài, dự báo các chiều hướng cung-cầu hàng hoá và dịch vụ…

-Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra thị trường nước ngoài.

-Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu.

-Đối với những mặt hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu..) cần tăng cường áp dụng các biện pháp giá cả, kiềm chế khối lượng bán ra hay tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể (như việc liên kết hợp tác với Thái Lan trong việc xuất khẩu gạo), để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi nhất.

Cơ hội và thách thức do tự do hoá đem lại

Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế mang tính tất yếu. Hội nhập mang lại cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng từ hội sẽ phát sinh không ít những thách thức, khó khăn mà chúng ta phải quyết tâm vượt qua để bảo đảm xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.

Cơ hội

* Khắc phục được tình trạng phân biệt đối sử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế .

Nhìn chung tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chúng ta sẽ khắc phục được tình trạng bị các cường quốc lớn phân biệt đối xử, nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế . Đặc biệt, tiến trình này sẽ tạo cơ hội cho các nước nhỏ, nước chậm phát triển có cơ hội đối thoại chính sách với các nước phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các nước khác trên các diễn đàn quốc tế nhằm loại bỏ các rào cản thương mại, đấu tranh đòi đối sử công bằng trong thương mại.

* Được hưởng những ưu đãi thương mại, mở đường cho thương mại phát triển .

Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần để chúng ta tranh thủ những ưu đãi về thương mại, đầu tư những lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ mỗi tổ chức, góp phần mở rộng thị trường cho hàng hoá Việt Nam, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam. Đặc biệt, trong WTO cũng như đại đa số các tổ chức khu vực khác đều có các chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển và các nước trong thời kỳ chuyển đổi cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế và, phi thuế quan và các nghĩa vụ khác.

*Tạo điều kiện cơ cấu lại sản xuất trong nước theo hướng có hiệu quả hơn.

Tham gia tiến trình tự do hoá thương mại, thực hiện giảm thuế và mở cửa thị trường sẽ tạo sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trên thị trường nội địa, đòi hỏi các ngành sản xuất phải được cơ cấu lại cho phù hợp với xu hướng thế giới, nâng cao hiệu quả kinh doanh và sản xuất những sản phẩm được thị trường thế giới chấp nhận. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đôi với các nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hoá như Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội lựa chọn nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào phù hợp, mở rộng hợp tác khoa học - kỹ thuật, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

* Góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất.

Một trong những ưu điểm của việc tham gia hội nhập vào các tổ chức khu vực và quốc tế đối với các nước đang phát triển là các tổ chức này thường có các chương trình hợp tác kinh tế -kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý và sản xuất ch các nước thành viên. Ví dụ, ASEAN có các chương trình hợp tác về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển cơ sở hạ tầng, hợp tác phát triển xã hội,...APEC có chương trình hợp tác kinh tế-kỹ thuật (ECOTECH) bao gồm 9 lĩnh vực hợp tác với trên 250 dự án đang triển khai. Những chương trình này đã tạo điều kiện cho các nước tham gia phát triển bồi dưỡng nguồn nhân lực và tiếp cận với công nghệ mới trong các lĩnh vực sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh kinh tế.

Như vậy, thông qua hội nhập kinh tế quốc tế ta có thể rèn luyện và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có bản lĩnh vững vàng và trình độ chuyên môn thành thạo, xây dựng đội ngũ các doanh nghiệp năng động, có kỹ năng quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi, biết tổ chức tốt thị trường và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp góp phần chiến thắng trong cạnh tranh.

Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có thể tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên thế giới đối với sự nghiệp đổi mới kinh tế, xây dựng đất nước của Đảng và nhà nước ta, đồng thời học hỏi kinh nghiệm quốc tế, từng bước điều chỉnh hệ thống luật lệ. Chính sách thương mại phù hợp với tập quán quốc tế và các quy tắc chuẩn mực của WTO, Đảm bảo hình thành đòng bộ các yếu tố thị trường, bình đẳng khuyến khích tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh nhưng vẫn giữ vững vai trò quản lý của nhà nước, bảo đảm phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia.

Khó khăn và thách thức

Một trong những thách thức lớn của tiến trình của tự do hoá là việc cắt giảm thuế quan (chủ yếu là thuế nhập khẩu)sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách và gia tăng cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu với nhiều ngành sản xuất còn non trẻ trong nước. Đây là khó khăn chung của tất cả các nước đang phát triển trong quá trình hội nhập. Đối với trường hợp Việt Nam, Hai thách thức cơ bản cần giải quyết trong quá trình hội nhập kinh tế là:

*Năng lực cạnh tranh của kinh tế và doanh ngiệp.

Việc giảm thuế quan và các biện pháp phi thuế, thông thoáng chính sách quản lý đối với các lĩnh vực đầu tư, dịch vụ,...sẽ làm phát sinh sức ép lớn,đòi hỏi nền kinh tế và các doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh mới có thể trụ vững và khai thác được lợi thế của hội nhập. Xét về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, chúng ta có lợi thế về lao động và một số tài nguyên: nông-lâm-khoáng sản. Song các yếu tố khác, như công nghệ, trình độ quản lý, các sở hạ tầng, độ ổn định về chính sách và hệ thống tài chính-ngân hàng sau 15 năm đổi mới đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, nên xét về mặt tổng thể, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn tương đối thấp. Do vậy, để hội nhập có hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chúng ta cần giải quyết một loạt các vấn đề liên quan dến cơ sở hạ tầng, cơ chế, chính sách, năng lực quản lý, hệ thống tài chính, ngân hàng...

Xét về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, gần đây năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam đã xuất hiện trong nhiều ngành sản xuất, nhưng nhìn chung còn tương đối thấp, thể hiện ở các điểm sau:

-Năng suất lao động chưa cao;

-Chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm còn thấp;

-Trình độ công nghệ và khả năng tiếp cận với công nghệ mới còn hạn chế;

-Chi phí đầu vào còn cao và chưa hợp lý dẫn đến nhiều trường hợp giá cả hàng hoá chưa cạnh tranh được với hàng nhập khẩu;

-Thị trường đầu ra cho sản phẩm chưa ổn định và bền vững.

Thực trạng về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay đòi hỏi nhà nước phải có chính sách bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường. Tuy nhiên, các cơ chế của các tổ chức khu vực và quốc tế mà chúng ta là thành viên không cho phép chúng ta bảo hộ vô thời hạn, bảo hộ tràn lan tất cả các ngành kinh tế. Mặt khác, theo nguyên tắc " có đi-có lại" các thành viên của các tổ chức này đòi hỏi chúng ta cũng phải có những hoạt động mở cửa thị trường ở mức độ nhất định thì họ mới có thể để chúng ta hưởng những ưu đãi thị trường và mở cửa cho hàng xuất khẩu của ta. Vì vậy, việc phân loại ngành hàng bảo hộ theo năng lực cạnh tranh, từ đó đảm bảo có chính sách bảo hộ hợp lý, có trọng tâm, với thời hạn cụ thể giúp phần nào giải quyết khó khăn này. Các cấp bảo hộ: bảo hộ cấp 1 (bảo hộ cao nhất) đối với mặt hàng nhạy cảm, bảo hộ cấp 2 đối với những mặt hàng thuộc cân đối lớn của nền kinh tế và bảo hộ cấp 3 dành cho những mặt hàng trong nước có thể sản xuất. Những mặt hàng không thuộc các danh mục bảo hộ trên có thể bỏ ngay hàng rào thuế và phi thuế quan, thực hiện tự do hoá mậu dịch. Những mặt hàng cạnh tranh quá kém, không có tiềm năng phát triển cần mạnh dạn chuyển hướng sản xuất sang những ngành khác mà chúng ta có lợi thế hơn.

*Về cải cách hệ thống luật pháp và các chính sách kinh tế-thương mại

Như đã trình bày ở trên, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ liên quan đến việc giảm thuế và các hàng rào phi thuế mà còn liên quan đến việc cải cách luật pháp và các chính sách thương mại nhằm ngày càng tạo thuận lợi hơn cho xuất nhập khẩu, đầu tư,...trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, yêu cầu này của hội nhập thực sự là một thách thức lớn đối với chúng ta. Hệ thống chính sách kinh tế-thương mại phải được diều chỉnh và hoàn thiện để một mặt từng bước thích ứng với nguyên tắc của WTO, mặt khác, còn tạo môi trường pháp lý vững chắc và thuận lợi cho doanh nghiệp, bảo vệ hợp lý những ngành sản xuất non trẻ.

Cho tới nay, hệ thống chính sách thương mại và các chính sách vĩ mô có liên quan khác của ta cũng còn nhiều bất cập và không đồng bộ: nhiều biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại mà các tổ chức kinh tế thương mại thừa nhận thì ta lại chưa có (ví dụ, chế độ hạn ngạch thuế quan, biện pháp cân bằng thanh toán, quyền tự vệ, quy chế suất xứ, chống bán phá giá, chính sách cạnh tranh,...). Trong khi đó, ta lại áp dụng môt số biện pháp, chính sách không có trong thông lệ kinh doanh quốc tế, và nguyên tắc của các tổ chức quốc tế.

0