Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – Văn mẫu lớp 11
Đánh giá bài viết Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường chuyên Nguyễn Huệ Hà Nội Thế kỉ thứ XIX – thời kì đau thương những vĩ đại của dân tộc ta. ở thế kỉ ấy, có một nhà ...
Đánh giá bài viết Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường chuyên Nguyễn Huệ Hà Nội Thế kỉ thứ XIX – thời kì đau thương những vĩ đại của dân tộc ta. ở thế kỉ ấy, có một nhà thơ mù nhưng trong lòng luôn sáng như gương. Người đó nhìn thấu hết được mà bao người mắt sáng không ...
Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường chuyên Nguyễn Huệ Hà Nội
Thế kỉ thứ XIX – thời kì đau thương những vĩ đại của dân tộc ta. ở thế kỉ ấy, có một nhà thơ mù nhưng trong lòng luôn sáng như gương.
Người đó nhìn thấu hết được mà bao người mắt sáng không thấy. Người đó chính là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Trong văn học Việt Nam từ trước cho đến thời kì của Nguyễn Đình Chiểu chưa có một hình tượng người nông dân nào lại chân thực và cảm động hơn nghĩa từ trong 'văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' của ông.
Trước Nguyễn Đình Chiểu, con người, người nông dân thường được xuất hiện trong văn chương Việt Nam nhưng đó chỉ là ngư phủ tiều phu với bóng hình thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hay là đám đông lố nhố hàng ngày chỉ là cục đất của khoai khi có dịp thì trở nên là những kiêu binh lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Những người nông dân xuất hhieenj trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác, họ chỉ là những con người bình thường với những xuất thân bình thường. Trong bối cảnh lịch sử, 'súng giặc đất rền, lòng dân trởi tỏ, Mười năm công vở ruộng, chưa ắt còn danh nỗi như phao, một trận nghĩa đánh Tây., tuy là mất tiếng vang như mõ.
Cái thời đại đau thương của lịch sử dân tộc với bọn Thực dân tàn bạo nổ súng xâm lược nước ta, khiến nhân dân rơi vào thảm cảnh loạn li đau khổ vì chiến tranh và triều đình nhà Nguyễn bỏ bê chiến sự.
Thì đã có những người nông dân ' dân áp, dân lân', 'ngoài cật có một manh áo vải' bản tính hiền lành chân chất quanh năm suốt tháng côi cút làm ăn, toan lo ngèo khổ. Họ tự nguyện đứng lên 'nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳn thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc sức ra tay bộ hổ'
Những người nông dân đó khi còn ở bên trong lũy tre làng họ chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ, thành thục với ngề nông trang.
Việc cuốc, việc cày, làm bừa việc cấy tay vốn làm quen. Nhưng khi nghe tin giặc đến thì dù chỉ là dân thường nhưng những người nông dân ấy cũng vô cùng sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan. Dân nghe theo quan mà làm, dân thấy quan làm mà theo.
Nhưng những người nông dân ấy lại căm thù giặc đến cao độ, những người nông dân ghét quân giặc, thói mọi như nhà nông ghét cỏ, họ nhận thấy được mối nguy hại của đất nước, dân tộc và nhất quyết không chịu bán nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Tình yêu đất nước của họ gắn liền với niềm tự hòa truyền thống của dân tộc. Chính vì vậy, họ tự nguyện cầm vũ khí đi đánh giặc. Một sự chuyển biến phi thường của những người nông dân từ người hiền lành, chất phát trưở thành những người có ý thức trách nhiệm và tự nguyện vì đại nghĩa mà đứng lên đánh giặc.
'Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đao kia, gươi đao dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chứm rớt đầu quan hai họ.
Chi ngọc quan quản gióng trống kè trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xuống và liều mình như chẳng có.
Kẻ đam ngang người chém ngược, làm cho mã tà, mã ní hồn kinh, bọn hè trước lúc ó sau trồi kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là một cuộc đối đầu không cân sức.
Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đứng lên không có ai tổ chức, chẳng có binh thư binh pháp còn quân giặc thì được chuẩn bị có quy mô bài bản. Họ thất thế khi xông trận mà chỉ 'ngoài cật có một manh áo vải', 'trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù thì có táu sắt táu đồng, đạn nhỏ, đạn to.
Song với ý chí căm thù giặc, lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ hết tàu thiếc tàu đồng súng nổ. Bằng ngọn lửa tinh thần , họ liều mình xung trận người đâm ngang, kẻ chém ngược quân thù làm chúng thất điên bát đảo. Họ liên tiếp tấn công và ghi được thắng lợi, mặc dù vũ khí thô sơ những cũng tạo nên được nhịp điệu dứt khoát, sôi nổi hào hùng đầy khí thế của người nông dân Nghĩa si tự tin vào chiến thắng.
Nhưng ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động đó là cái chết và những người nông dân hiểu điều đó hơn ai hết. và rồi, những người nông dân trở thành ' những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang'.
Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ chân thực lần đầu tiên xuất hiện xuyên suốt một tác phẩm trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng bi tráng. Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian, lấn ào thời gian để nói với muôn đài rằng: 'thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen, thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ'
Sự gắn bó, lóng yêu nước thương cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào thwo văn mình hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại 'nước mắt anh hùng lau chẳng ráo' và tấm lòng yêu thương bi hiết của nhà mù đất Đồng Nai. Những người anh hùng 'sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc'. còn nhà thơ đã dựng lại bức tượng đài nghìn năm trong ký ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.
Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 2
Nửa thế kỉ XIX là một giai đoạn biến động mạnh mẽ của lịch sử dân tộc ta, đánh dấu bằng cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Cảnh nước mất nhà tan, muôn dân đau khổ đã khiến cho biết bao sĩ phu yêu nước cầm bút làm thơ. Trong số những tác giả ấy, không thể không nhắc đến Nguyễn Đình Chiểu với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác phẩm đã khắc hoạ một hình tượng nghệ thuật đẹp về người nông dân-nghĩa sĩ trong buổi đầu chống Pháp của dân tộc.
Tôi còn nhớ một câu nói của nhà văn Nga Sêkhôp: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo trong cốt tuỷ”. Nhận định ấy đã trở thành chân lí của nghệ thuật nói chung và của văn học nói riêng. Điều đó được thể hiện sâu sắc qua cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ, một nhà văn, nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc, bởi chính nhà thơ đã từng nói:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Có lẽ vì ý thức được sâu sắc vai trò của nhà thơ văn đối với đời mà Nguyễn Đình Chiểu luôn hướng các tác phẩm của mình về phía “nghệ thuật vị nhân sinh”. Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng ra đời trên nền tảng đó.
Theo ghi chép của lịch sử thì tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời là do một người bạn học của Nguyễn Đình Chiểu là Đỗ Quang – bấy giờ giữ chức tri phủ-có lời cậy. Nhưng hẳn đó không phải là lí do duy nhất để Nguyễn Đình Chiểu viết nên tác giả-một sĩ phu yêu nước-vô cùng cảm động, khâm phục tấm gương chiến đấu anh dũng của những nghĩa sĩ hi sinh trong trận chiến với thực dân Pháp ở Cần Giuộc. Bởi vậy, khi đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ta không chỉ thấy ở đó một tấm lòng cảm phục, kính trọng đối với những nghĩa sĩ mà còn bắt gặp một bức tranh chân thực về cuộc sống lao động và chiến đấu của họ, những người nông dân khoác áo nghĩa binh.
Tác phẩm được viết theo thể loại văn tế. Loại văn này thường được sử dụng trong các tác phẩm văn học thể hiện tấm lòng đối với người đã khuất như: Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du,…Lối văn được sử dụng là lối văn biểu ngẫu, từng vế sóng đôi tạo nên sự nhịp nhàng, cân đối.
Trong kho tàng văn tế Việt Nam thì Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được đánh giá là một kiệt tác; bởi đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học, tác giả đã xây dựng được một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân-nghĩa sĩ.
Tác phẩm được kết cấu gồm bốn phần: phần lung khởi nêu khái quát về cuộc chiến đấu và sự hi sinh của nghiã sĩ; phần thích thực nêu lên đóng góp, công lao của nghĩa sĩ đối nhân dân, với đất nước, phần ai vãn thể hiện nổi niềm tiếc thương của những người ở lại, phần kết là lời hứa về những việc làm của người còn sống để đền ơn những người đã khuất. Đây cũng là kết cấu chung vốn có của thể loại văn tế trong văn học cổ điển.
Trong phần lung khởi của bài văn tế, người đọc bắt gặp ở đó hoàn cảnh của cuộc chiến đấu và ý nghĩa của nó:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao;
Một trận nghĩa đánh tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Khi thực dân Pháp kéo quân vào giày xéo đất nước ta, giết hại nhân dân ta đến mức:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dác bay
(Chạy giặc, Nguyễn Đình Chiểu).
Thì thử hỏi lòng dân không oán hận? Nhưng trong hoàn cảnh ấy, không ai cũng có sức mạnh để đứng lên, ai cũng dám cầm gương mà tiêu diệt kẻ thù. Chỉ có những người nông dân vốn yêu chuộng hoà bình, vốn giàu sức mạnh mới dũng cảm quên mình để bước vào cuộc chiến đấu.
Những người nông dân Nam Bộ vốn chất phác, hiền lành, chỉ biết côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó. Chỉ riêng từ côi cút đã đủ sức khiến cho độc giả hiểu được về cuộc sống của những người nông dân này. Người dân Việt Nam vốn quen làm lụng “một nắng hai sương”, suốt ngày “ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để làm ra hạt lúa, củ khoai lo cho từng bữa ăn. Cái nghèo, cái khó đã khiến họ suốt cả một đời chỉ biết lao động hăng say, không biết đến binh đao, chiến trận. họ hiền lành, chân thật đến mức:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Đôi bàn tay của họ có nhiều chai sạn nhưng những vết chai sạn ấy chỉ là do họ cầm cuốc, cầm cày quá nhiều chứ không phải là do họ cầm khiên, cầm mác chiến đấu. Điều đó chứng tỏ một vẻ đẹp của người nông dân Nam Bộ nói riêng và những người dân Việt Nam nói chung: yêu lao động, yêu hoà bình.
Vẫn là những người nông dân ấy nhưng hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã nhận thấy ở họ một sức mạnh chiến đấu, một sức sống tiềm tàng khoẻ khoắn, cương trực, một vẻ đẹp đặc trưng của con người Nam Bộ: Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Từ những người chân lấm tay bùn, họ bỗng rũ bùn đứng dậy sáng loà (Đất nước-Nguyễn Đình Thi), trở thành những nghĩa sĩ kiên cường mang trên đôi vai sức vóc của cả dân tộc.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã xây dựng được hình ảnh một tập thể anh hùng trong chiến đấu, mang trong tim dòng máu nóng cảu lòng căm thù mãnh liệt.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Nhìn thấy những chiếc tàu Pháp ngày ngày nghênh ngang đi lại trên sống ngòi quê hương, chứng kiến cảnh nhân dân bị đàn áp đói khổ, lòng căm thù trong họ bước đầu mới chỉ là muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ-một lòng căm thù sục sôi nhưng vẫn còn mang đậm chất nông dân thực thà, rất đời thường.
Quê hương đã chìm trong ách thống trị của bọn thực dân, những người dân Nam Bộ vẫn hướng mắt về phương Bắc-nơi còn giữ được chủ quyền-hi vọng quan quân nhà Nguyễn sẽ tới để đánh đuổi Pháp. Nhưng rồi:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng; trông tin quan như trời hạn trông mưa.
Đã hơn mười tháng, người dân nam Bộ vẫn chưa thấy bóng dáng một đoàn quân nào của triều đình nhà Nguyễn; bởi vậy, họ càng trông ngóng, càng hy vọng bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu. Biết tới khi nào Thánh đế ân soi thấu để họ có thể đón nhận một trận mưa nhuần rửa núi sông (Ngư tiều y thuật vấn đáp, Nguyễn Đình Chiểu).
Bản chất những người nông dân ấy hiền lành, chất phác đến mức căm thù giặc họ cũng chỉ biết so sánh bằng hình ảnh ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Cỏ đối với nhà nông là kẻ thù nguy hiểm, bởi nó đe doạ sẽ cướp đi của họ sự no ấm, sự bộ của mùa màng, sẽ khiến gia đình họ nghèo hơn, đói hơn. Và giặc Pháp cũng vậy, chúng là kẻ thù “bất cộng đái thiên” bởi chúng cướp nước, cướp ruộng vườn, tàn sát dân ta.
Những người nông dân ấy giản dị, mộc mạc cả về hình thức bên ngoài lẫn bản chất bên trong. Nếu bản chất họ thật thà, chất phác, đôn hậu bao nhiêu thì bề ngoài của họ cũng giản dị, cũng mộc mạc bấy nhiêu. Là nghĩa sĩ nhưng họ không mang giáp trụ, không súng, không khiên, trên tấm thân ấy chỉ là một manh ảo vải-một mảnh áo nâu màu đất, màu quê hương bền bỉ, đậm đà. Họ lên đường chiến đấu chỉ với một lưỡi dao phay, với hoả mai đánh bằng rơm con cúi,…Điều này cho thấy sự đối lập về lực lượng giữa những người nghĩa binh và bọn thực dân Pháp. Họ mang dao phay, mang rơm con cúi để đánh lại đạn nhỏ, đạn to, tàu thiếc, tàu đồng của địch. Tuy nhiên sự chênh lệch ấy không làm lung lay ý chí quyết tâm và lòng căm thù sôi sục trong họ. Chẳng đợi ai đòi, ai bắt, chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, họ quyết tâm mang tài trí và sức lực của mình đánh giặc cứu nước. Và thật sự họ đã giáng xuống đầu bọn thực dân và bè lũ bán nước những đòn trí mạng: họ đốt sạch kho tàng, nhà thờ đạo của chúng khiến mã tà ma ní hồn kinh.
Những người nông dân bước vào trận chiến đấu với tâm hồn thanh thản bởi họ đã gác sang một bên chuyện gia đình, vợ con, chuyện đói no cơm áo, trong lòng họ lúc ấy chỉ có ánh sáng của lòng yêu nước, của ý chí căm thù. Và ánh sáng ấy đã chỉ lối cho họ, đã dẫn bước họ dũng cảm chiến đấu để rồi cũng thanh thản hi sinh như cày xong thửa ruộng. Gia đình họ vẫn còn mẹ già, vợ dại, con thơ-những người thân yêu của họ trên đời. sự hy sinh của những người nông dân ấy đã khiến gia đình họ mất đi trụ cột vững chắc, để rồi mẹ già ngồi khóc trẻ. Thực chất, chính hoàn cảnh đất nước, chính sự tàn ác của bè lũ cướp nước đã buộc họ phải hy sinh thân mình, hi sinh vì Tổ quốc, vì đồng loại. Điều ấy khiến họ thanh thản ra đi mà không còn ảm thấy gánh nặng trách nhiệm đối với gia đình.
Dù chiến đấu ngoan cường, anh dũng nhưng bởi sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, về vũ khí,…mà những người nghĩa sĩ đã không chiến thắng. Họ đã ngã xuống trên mảnh đất quê hương, nơi đã thấm máu của biết bao anh hùng: Trương Công Định, Phan Văn Trị, Thủ Khoa Huân,…những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của dân tộc ta thời kỳ hậu bán thế kỉ XIX.
Những nông dân-nghĩa sĩ vốn không phải là dòng ở lính diễn binh, chỉ quanh năm tất bật với việc đồng án cày bừa, phút chốc đã trở thành những người anh hùng áo vải, kiên trung bất khuất. sự lớn mạnh của họ dù không thần kì như một cái vươn vai của Phù Đổng, song đã đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng của người nông dân Việt Nam trong chiến đấu. Nguyễn Đình Chiểu tuy mù cả hai mắt song ôn lại là người nhìn thấy rõ nhất ở họ một vẻ đẹp trong sáng, đáng trọng. ông là người đã nhìn thấy ở họ một sức sống khoẻ khoắn, một sức mạnh tiềm tàng, lòng yêu nước tha thiết và lòng căm thù giặc mãnh liệt, bởi vạy ông đã xây dựng bức tượng đài bằng ngôn từ hết sức đặc sắc về họ-những người nông dân Nam Bộ.
Tấm lòng nhà thơ cũng là tấm lòng của mối người dân Việt Nam trân trọng, cảm phục tấm gương hi sinh anh dũng, đầy nghĩa khí của những nghĩa sĩ trên quê hương Cần Giuộc-mảnh đất Long An tươi đẹp ngày nay.
Lòng yêu nước bắt nguồn từ những tình yêu hết sức giản dị: yêu mẹ cha, yêu gia đình, yêu từng gốc lúa, bờ đê, yêu dòng sông quê,…Tất cả đã thổi bùng lên trong lòng những người nông dân chất phác, thật thà ấy ngọn lửa chiến đấu, đã hi sinh nhưng cũng chính họ lại là những người đã góp phần tô thêm sắc thắm cho sợi chỉ đỏ của lòng yêu nước đa xuyên suốt bốn ngàn năm lịch sử dân tộc ta.
Hình tượng người nông dân-nghĩa sĩ là một thành công lớn của nguyễn Đình Chiểu. Những người nông dân ấy hiện lên rất gần gũi, thân thương mà lại lớn lao, sừng sững. Nguyễn Đình Chiểu không viết về họ với những lời ngợi ca trân trọng, với hình ảnh và ngôn từ trau chuốt mà ông khắc hoạ hình ảnh họ bằng những nét vẽ gần gũi, giản dị, thậm chí có đôi chỗ quê mùa như chính người dân Nam bộ.
Cũng có ý kiến cho rằng, trong số những người nghĩa sĩ đã bỏ mình nơi mảnh đất Cần Giuộc, có một người là bạn cảu Nguyễn Đình Chiểu mới viết nên tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay đến vậy, cảm động đến vậy. Mặc dù vậy, chúng ta hẳn ai cũng phải công nhận rằng chỉ có tài thơ Nguyễn Đình Chiểu mới đủ sức tạc vào thơ ca Việt Nam, tạc vào lịch sử dân tộc và tạc vào thời gian một bức tượng đài nghệ thuật ngôn từ hết sức đặc sắc về hình tượng người nông dân-nghĩa sĩ trong buổi đầu chống Pháp.
Chỉ với những nét khắc hoạ giản dị như thế, Nguyễn Đình Chiểu đã đem đến cho người đọc sự nhận biết mới mẻ về sức mạnh của người nông dân. Khi hoà bình, họ là những người hiền hoà như mảnh đất quê hương, miệt mài, hăng say trong lao động, những khi quê hương có bong kẻ thù, họ vụt lớn mạnh thành anh hùng áo vải giết quân thù không chờ có hạt nhân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Vẻ đẹp ấy ở người nông dân ít được phát hiện trong văn học cổ, chỉ có Nguyễn Trãi là người đầu tiên có sự tiến bộ trong nhận thức: Làm lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước hay: Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Và Nguyễn Đình Chiểu là người thứ hai, sau Nguyễn Trãi nhận ra ở người nông dân một vẻ đẹp, một sức mạnh tiềm tàng và đã khắc hoạ lại trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Phải chăng, tư tưởng ấy của Nguyễn Đình Chiểu đã chiếu sáng vào những trang sử dân tộc ta mạnh tới đỉnh cao và chính họ là người đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Hình tượng người nông dân-nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khiến cho tác phẩm trở thành một kiệt tác bất hủ của văn học Việt Nam, đúng như lời nhận xét của Mai Am nữ sĩ:
Quốc ngữ một thiên truyền vạn thuở
Còn hơn xây mộ đắp khô hài.
Và rồi chúng ta, mỗi người dân Việt Nam hôm nay, mỗi lần đọ lại bài văn tế này lại không khỏi xúc động trước vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ, xúc động trước tấm lòng cao cả của nhà thơ Nguyễn đình Chiểu:
…Cụ Đồ ơi có biết
Đồng Khởi đuổi quân thù
Quê thân thương của cụ
Mõ trống vọng nghìn thu.
(Thăm nền nhà cụ Đồ Chiểu, Huy Cận)
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là một khúc ca bi tráng về hình ảnh những người nông dân-nghĩa sĩ trong tác phẩm còn gợi mở trong lòng mỗi chúng ta sự liên tưởng về hình ảnh những người nông dân khoác áo lính trong thơ ca hiện đại:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
…Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày…
(Đồng chí, Chính Hữu)
Hay:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh…
(Nhớ, Hồng Nguyên)
Đó đều là hình tượng nông dân trong chiến đấu được khắc hoạ rất đẹp, rất thành công trong văn học Việt Nam.
Hình tượng người nông dân-nghĩa sĩ trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã để lại trong lòng độc giả ấn tượng sâu sắc. Sự thành công trong việc khắc hoạ hình tượng đó đã một lần nữa khẳng định tài năng thơ Nguyễn Đình Chiểu, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc, một nhà thơ, nhà văn, nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc ta thời kì đầu chống thực dân Pháp.
Qua hình tượng người nông dân-nghĩa sĩ ấy, chúng ta càng thêm yêu quý, trân trọng vẻ đẹp của con người Việt Nam:
Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài lên!
(Ta đi tới, Tố Hữu)
Cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 3
Đã hơn một thế kỉ trôi qua tiếng tới thơ Đồ Chiểu vẫn còn vang vọng mãi trong trái tim mỗi người Việt Nam yêu nước. Bởi trong cuộc đời cầm bút của mình, ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá tri về nội dung lẫn nghệ thuật: Lục Vân Tiên, Văn tế Trương Định, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Thơ Điếu Phan Tòng, Chạy giặc…và đặc biệt không thể nào không kể đến một tác phẩm được Nguyễn Đình Chiểu viết để bày tỏ nỗi thương tiếc đối với những người nông dân nghĩa sĩ dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc thân yêu – “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Tác phẩm đã khắc họa một hình tượng thật đẹp về người nông dân nghĩa sĩ trong buổi đầu chống Pháp.
Nửa cuối thế kỉ XIX là giai đoạn biến động mạnh mẽ của dân tộc ta, được đánh dấu bằng cuộc xâm lược của Thực dân Pháp. Cảnh nước mất nhà tan, muôn dân đau khổ khiến cho bao người phải rơi lệ, bao sĩ phu yêu nước phải cầm bút. Bài “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ra đời trong một thời đại như thế. Tác phẩm được viết theo thể loại văn tế – một thể loại thường dùng riêng các tác phẩm văn học thể hiện tấm lòng đối với người đã khuất: Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du,…Văn tế sử dụng lối văn biền ngẫu, từng vế sóng đôi tạo nên sự nhịp nhàng cân đối gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Khi đọc “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ta không chỉ thấy ở đó tấm lòng cảm phuc kính trọng đối với những người nghĩa sĩ mà còn bắt găp một bức tranh chân thực về cuộc sống, cuộc đời của họ – những người nông dân khoác áo nghĩa binh. Mở đầu bài văn tế người đọc bắt gặp ở đó hoàn cảnh của cuộc chiến đấu và ý nghĩa cao cả của sự hi sinh:
“ Súng giặc đất rền; Lòng dân trời tỏ
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận
nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”
đứng trước vận nước nguy nan,Thưc dân Pháp giày xéo lên quê hương khiến nhân dân:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ bầy chim dáo dát bay”
(Chạy giặc)
thử hỏi lòng dân ai không oán giận? Đứng trước hoàn cảnh đau thương ấy, không phải ai cũng dũng cảm đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Chỉ có những người nông dân vốn yêu chuộng hòa bình, yêu nước họ mới dũng cảm quên mình dấn thân vào cuộc chiến đấu không ngại hi sinh.
Người nông dân Nam Bộ vốn hiền lành chất phác chỉ biết “ cui cút làm ăn” nhưng vẫn “ toan lo nghèo khó”. Riêng từ “ cui cút” thôi cũng đủ độc giả hiểu được cuộc sống của họ. Họ làm việc một cách chăm chỉ, lặng lẽ nhưng chẳng ai đoái hoài. Cuộc sống của họ vốn “ một nắng hai sương ”, “ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để làm ra hạt lúa, củ khoai lo từng bữa ăn. Cái cuộc sống nghèo khổ ấy khiến họ hăng say lao động hơn, không hề biết đến binh đao:
“Chưa quen cung ngựa, đâu đến trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”
Đôi bàn tay họ chay sạn vì cần cù lao động cầm cuốc cầm cày chứ không phải vì cầm súng. Trong tay họ không có vũ khí làm sao mà ra trận đánh giặc được? Họ luôn mong chờ tin tức của triều đình nhưng đã mười tháng rồi nào đâu cũng chẳng thấy: “ Tiếng phong hạc phập phòng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời han trong mưa”. Họ luôn sống trong nỗi phập phòng lo sợ biết tới khi nào: “ Thánh đế ân soi thấu” để họ được nhận “ Một trận mưa nhuần rửa núi sông”. Tuy vẫn người nông dân ấy trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng Nguyễn Đình Chiểu đã nhìn thấy ở họ một sức sống tiềm tàng,họ mang trong mình dòng máu nóng của lòng căm thù mãnh liệt:
“ Bữa thấy bòng bong che lớp trắng, muốn đến ăn gan; ngày xem ống
khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”
“… mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”
Một hình ảnh so sánh rất gần gũi “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Cỏ đối với nhà nông là kẻ thù nguy hiểm bởi nó sẽ đe doạ và cướp đi sự no ấm, sự bội thu mùa màng khiến gia đình họ sẽ nghèo đói hơn.Và Thực dân Pháp cũng vậy, chúng là kẻ thù “ không đội trời chung” bởi chúng cướp ruộng vườn, tàn sát nhân dân ta.
Không chỉ vậy Nguyễn Đình Chiểu còn phát hiện ra một phẩm chất cao quý ở người nông dân bình dị chất phác ấy là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc, quê hương. Họ sẵn sàng “ làm quân chiêu mộ” không ngại khó khăn nguy hiểm luôn đến với họ bất kì lúc nào. Với lòng yêu nước họ chẳng thèm “ trốn ngược trốn xuôi”, cũng “ chẳng đợi ai đòi ai bắt”. Họ là nghĩa binh nhưng không hề có áo giáp, trên tấm thân ấy chỉ là một manh áo vải – manh áo nâu bạc màu của đất, màu quê hương đậm đà. Họ cũng không có súng, không có khiên, chỉ chiến đấu với lưỡi dao phay, ngọn tầm vong, với “ hoả mai đánh bằng rơm con cúi”. Trong khi đó Thực dân Pháp nào là tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ. Mặc dù có sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, vũ khí nhưng trong hoàn cảnh ấy họ phải “ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Quả thật trời không phụ lòng người, họ đã giáng đầu bọn thực dân và bè lũ bán nước một đòn chí mạng: đốt nhà thờ, chém rớt đầu quan hai họ, khiến chúng phải run sợ “ mã tà, ma ní hồn kinh”.
Người nghĩa sĩ biết rằng bước vào chiến trường tức là đối diện với tử thần nhưng họ vẫn dấn thân vào với tâm hồn thanh thản. bởi họ đã gác sang một bên chuyện gia đình vợ con trong lòng họ lúc này chỉ có ánh sáng của yêu nước và ý chí của lòng căm thù. Và ánh sáng ấy đã chỉ lối cho họ dũng cảm chiến đấu để rồi cũng thanh thản hi sinh như “cày xong thửa ruộng”. Họ đã ngã xuống trên chính quê hương của mình. Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ ấy khiến cho bao người thân của họ phải đớn đau: mẹ xa con, vợ xa chồng, con xa cha… . Ôi! Còn gì đau đớn hơn: “ Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều, não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Họ đã trở thành người anh hùng áo vải kiên trung bất khuất như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi:
“ Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng” ( Đất nước)
Nguyễn Đình Chiểu đã phát hiện ra phẩm chất cao quý của người nghĩa sĩtiềm ẩn đằng sau manh áo vải, đằng sau cuộc đời vất vả lam lũ ấylà tinh thần chiến đấu không ngại gian khổ, hi sinh vì nhân dân, vì Tổ quốc, họ bổng chốc “ Rũ bùn đứng dậy sáng loà” ( Đất nước – Nguyễn Đinh Thi). Nếu không có một trái tim nhân hậu, một tấm lòng nồng nàn yêu nước thì Nguyễn Đình Chiểu đã không cho chúng ta sống lại những giây phút hào hùng của dân tộc. Những người nghĩa sĩ họ thật sự đã ra đi mãi mãi nhưng sự hi sinh của họ góp phần điểm tô thêm sắc thắm cho sợi chỉ đỏ của lòng yêu nước đã xuyên suốt lịch sử dân tộc ta.
Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ làm nên thành công lớn của Nguyễn Đình Chiểu qua bài văn tế. Nguyễn Đình Chiểu không viết về họ bằng những lời thơ trang trọng, ngôn ngữ trau chuốt mà khắc hoạ bằng nét vẽ gần gũi giản dị, chat phác như chính những người nông dân Nam Bộ. “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thật sự là một khúc ca bi tráng về hình ảnh của người nông dân nghĩa sĩ anh hùng trong chiến đấu đồng thời là tấm lòng khâm phục cùng sự thương tiếc của nhà thơ đối với họ. Người nông dân nghĩa sĩ ấy gợi lên trong lòng mỗi chúng ta liên tưởng về hình ảnh người nông dân trong thơ ca hiện đại:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
…………………………………….
Áo anh rách vai
Quần tôi có hai mảnh vá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” ( Đồng chí – Chính Hữu)
Hay ta bắt gặp người nông dân ấy trong bài “ Nhớ” của Hồng Nguyên:
" Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen
………………………………………..
Áo vải chân không
Đi lùng đánh giặc”
Nói tóm lại, với “ Văn tới nghĩa sĩ Cần Giuộc” , Nguyễn Đình Chiểu đã tạc vào thời gian bức tượng đài nghệ thuật ngôn từ hết sức đặc sắc về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong buổi đầu chống Pháp. Sự thành công ấy một lần nữa đã khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nghệ thuật, một nhà thơ, một nhà văn yêu nước vĩ đại của dân tộc trong thời kì đầu chống Pháp. Qua hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, chúng ta càng thêm yêu quý, trân trọng vẻ đẹp của con người Việt Nam – những con người giàu lòng yêu nước sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc Việt Nam thân yêu.