Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Văn mẫu lớp 12
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Quảng Ngãi Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của ...
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Quảng Ngãi Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không ...
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Quảng Ngãi
Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi xốn xao da diết. Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm ! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”.. Trong những vần thơ mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, tác phẩm “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nổi bật hơn cả.., bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.
Đất nước, 2 tiếng ấy thật thiêng liêng,tự hào.nó trở thành đề tài muôn thuở trong thơ ca chỉ có điều các nhà thơ nhà văn hay dùng những hình ảnh mang tính biểu tượng để viết về đất nc hay tự tạo ra một khoảng cách để chiêm ngưỡng.còn tong tho NKD.đất nước không phải là 1 khái niệm trừu tượng mà rất gần gũi đối với mỗi người.Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, mỗi ng đều có cáh cảm nhận , lí giải riêng của mình.vói NKD ddc cảm nhận ở các phương diện lsu địa lý vhoa …nen tg tự hào mà nói rằng ” khi ta lớn lên đất nc đã có rồi”
nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của c on người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc… …
Giọng thơ thủ thỉ,chân thành mà sâu lắng ấy đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân – Đất Nước. Đất Nước đã có từ lâu,rất lâu rồi. Khi ta oa oa cất tiếng khóc chào dời, lớn lên và trưởng thành thì đất nước đã có rồi.Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại : “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”giờ còn đọng lại trong tiềm thức với cô Tấm ngoan hiền, với sự tích bánh chưng bánh dày, bà tiên nhân hậu hay mụ dì ghẻ độc ác,…Hình ảnh Đất Nước vừa hiện lên vừa giản dị gần gũi ,vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn con người ,được nuôi dưỡng từ thưở thơ bé và truyền lại cho muôn đời sau”ngày xưa” chỉ với hai từ mà bao kỉ niệm tuổi ấu thơ lại lùa về.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Trong kho tàng văn học dân gian ,nhà thơ đã chọn ra hai câu chuyện để khắc hoạ hình ảnh đất nước bằng chính những cảm nhận sâu sắc của mình . “Đất Nước bắt đầu” một câu thơ lí giải sự hình thành đất nước gắn liền với câu chuyện cổ tích cầu trau. Đó là câu chuyện cổ tích ngợi ca nghĩa anh em và tình vợ chồng gắn bó keo sơn . “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất Nước được hình thành trong lối sống tình nghĩa. “Miếng trầu bây giờ bà ăn” bắt nguồn từ thưở xa xưa _đó là truyền thống tốt đẹp. “Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”. Đất Nước được sinh ra và nuôi dưỡng trong truyền thống đạo lí tố đẹp của dân tộc đó là lối sống nghĩa tình . Đất Nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ nhữmg cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc . “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Câu thơ gợi nhắc truyền thuyết “Thánh Gióng” Làm ta nhớ đến một cậu bé lớn nhanh như thổi để lên đường đanh giặc Ân cứu nước.Một câu chuyện ngợi ca sức mạnh của tình yêu dân tộc và hình ảnh kì vĩ thánh gióng.Và đất nước ta cũng trưởng thành khi mọi người cùng nhau đồng lòng chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi.Với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã nhìn thấy sự trưởng thành của Đất Nước trong đau thương , thử thách nhờ công cuộc đấu tranh và lòng yêu nước của dân tộc. Qua lịch sử, truyền thống ấy đã trở thành truyền thống yêu nước thiêng liêng.
“Tóc mẹ thì búi sau đầu” Trong muôn vàn truyền thống đẹp ,nhà thơ chọn ra một hình ảnh thật giản dị nhưng rất tinh tế đặc sắc :hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu _hình ảnh thật gần gũi ,thân quen in sâu trong nếp nghĩ ,gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ vất vơ nhưng vẫn duyên dáng, tần tảo ,đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi ,vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng .
Và hình ảnh Đất Nước hiện lên qua chính mĩ tục ấy. Đất Nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” Câu thơ gợi từ một ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”. Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc .Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa ,trọn tình,thuỷ chung đã trở thành một truyền thống thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời . Và sự sinh thành, phát triển của Đất Nước song hàmh cùng với sự lưu truyền và phát triển của truyền thống tốt đẹp ấy. “Cái kèo, cái cột thành tên” Đất Nước được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc”cái kèo, cái cột”nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ẫm gia đình,làng xóm, quê hương, đất nước. Nói cách khác, nõ chính là tế bào của đất nước.
ĐN hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt : ”Hạt gạo phải một nắng hai sương xay ,giã ,giần ,sàng” Sự hình thành và phát triển của Đất Nước là một quá trình lâu dài ,nhờ bàn tay lao động xây dựng của con người từ thưở sơ khai ,khi con người tạo dựng những cái đơn giản nhất với nỗ lực một nắng hai sương .Con người lao dộng đã biết “xay ,giã ,giần,sàng” để tạo nên hạt gạo ,tạo nên những giá trị vật chất để xây dựng Đất Nước no ấm. Cách sử dụng từ ngữ “một nắng hai sương” và chon lọc hình ảnh “xay ,giã ,giần , sàng”cùng nhịp điệu lan toả gợi sự suy ngẫm liên tưởng ,hình ảnh Đất Nước hiện dần nhờ bàn tay lao động cần cù ,sáng tạo của con người ,hình ảnh ấy hiẹn dần trong nhịp điệu gạo rơi trên sân ,trong tiếng chày ,trong máy xay với cuộc sống lao động bền bĩ dù vất vả ,lam lũ .Qua đó ta nhận ra nét đặc trưng riêng của nền văn học Việt_văn hoá lúa nước. Hình ảnh Đất Nước hiện lên trong cuộc sống sinh hoạt là một Đất Nước cần cù, sáng tạo trong lao động.
Cũng chính trong cuộc sống lao động sinh hoạt, nhà thơ còn khám ra sự hình thành, phát tiển ngôn ngữ dân tộc gắn liền với nguồn gốchình thành và phát triển của ĐN : Khi con người biết lao động tạo dựng cuộc sống chính là khi họ biết đặt tên cho những sự vật hình tượng gần gũi nhất “cái kèo ,cái cột”,và trong quá trình lao động ,trong sự tìm tòi khám phá ,sáng tạo nên những giá trị vật chất như hạt gạo ,họ đã sáng tạo nên những ngôn từ ghi lại quá trình lao động ấy “xay ,giã ,giần ,sàng”.Đây là kết tinh tinh tuý linh hồn của dân tộc . ĐN hình thành và phát triển cùng với sự hình thành tiếng mẹ thiêng liêng ấy. Khám phá Đất Nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt ,Nguyễn Khoa Điềm đã phát biểu nhận thức của mình như lối định nghĩa độc đáo ,một cách lí giải không hề mang tính áp đặt mà đầy sức gợi , sức thuyết phục bằng những câu chuyện ,chọn lọc chi tiết giàu ý nghĩa giúp ta nhận ra Đất Nước bắt nguồn từ những điều giản dị nhất ,gần gũi nhất, nhưng bền vững đến muôn đời.
Trong đoạn thơ trên tg sủ dụng nhiều các yếu tố ca dao dân ca tục ngữ truyền thuyết cổ tích ko chỉ đem đến sự gần gũi mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dtooc.từ “đất nc” ddc viết hoa và lặp lại 5 lần thể hiện sự thành kính.Với chín dòng thơ 85 chữ ,không hề có một từ hán việt ,Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên những vần thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất giọng thủ thỉ tâm tình như một điệu ru dễ đi vào lòng người .Nhưng chuyển tải mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận chặt chẽ :tổng -phân -hợp. Chính sự kết hợp hài hoà giữa trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã làm sáng lên lối thơ tữ tình chính luận _ phong cách độc đáo riêng của Nguyễn Khoa Điềm.
Qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng như đã ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt ,qua chiều sâu văn hoá, sinh hoạt Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện ,một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt ,trong cuộc sống sinh hoạt từ bao đời . Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống,nếp nghĩ qua kho tàng văn học dân gian ,qua bản sắc văn hoá ….Đó là một Đất Nước không trừu tượng mà cụ thể ,chứa đựng mơ ước,khát vọng ,quan niêm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiên lên thật sống động ,lung linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong chiến đấu.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Bài làm 2
Cảm hứng về đất nước, về tầm vóc đáng tự hào của nó là một cảm hứng vốn quen thuộc cùa thơ ca hiện đại giai đoạn từ 1945 đến 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra rằng từ sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc, tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của Thánh Gióng. Đó chính là hiện thực, là tiền đề thẩm mĩ cất cánh cho những dòng cảm xúc đáng trân trọng về vóc dáng của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam. Là một nhà thơ trẻ, trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, nặng tình với non sông, người trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng góp riêng một tiếng nói của mình để khẳng định sự lớn dậy ấy.
Ông viết trường ca Mặt đường khát vọng mà âm điệu chính là những lời ngợi ca, những suy nghiệm sâu lắng về đất nước, về thời đại. Dù mới mẻ, tiếng thơ của ông về chủ đề quen thuộc này cũng đã khẳng định một nhân dáng, một cách nghĩ, cách nhìn mới. Đọc đoạn trích từ câu đầu đến câu Làm nên đất nước muôn đời… ta dễ dàng hình dung điều ấy.
Điểm rất mới của Nguyễn Khoa Điềm là đề cập đến một đề tài rất khái quát, nếu không muốn nói là trừu tượng, đề tài đất nước, nhưng những hình ảnh thơ, chất liệu cụ để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể, gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu cùa đất nước này ở chiều sâu của thời gian, chiều rộng của không gian, trong đoạn mở đầu, ông đã tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi đầy thân thương nhưng lại có sức liên tưởng mãnh liệt và tính khái quát cao. Đó là đoạn từ câu thơ thứ nhất đến câu Đất Nước có từ ngày đó. Đặc biệt, ông nối kết để tạo nên mạch thơ nói về sự hiện hữu của đất nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ suy nghỉ của mình.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Đọc đoạn thơ, ta không thế không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng tưởng của tác giả về sự hiện hữu của đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi một sự hiện hữu nhằm khẳng định nét riêng không trộn lẫn của đất nước này. Hình ảnh, với ngôn ngữ Ngày xửa ngày xưa một ngôn ngữ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích, hình ảnh người bà – nhà thơ muốn nói rằng đất nước này đã tồn tại từ lâu đời, tồn tại từ thuở Mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long, cái thuở Nam quốc sơn hà. Từ đó, đất nước lớn lên với những phong tục, cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng sẵn sàng xả thân khi tổ quốc làm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước hiện hữu vừa thật nhỏ nhoi, lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu. bây giờ bà ăn. Ở đây, sức liên tưởng thật sáng tạo, đầy ắp những nét đẹp về phong tục, tập quán, bản sắc quê hương:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Ở đó, có những bàn tay, những trái tim, những con người cần cù chịu thương chịu khó, lam lũ cần cù, một nắng hai sương. Đặc biệt ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có khi phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, nước mắt của cả một dân tộc luôn cần phải Rũ bùn đứng dậy tự khẳng định mình.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Cũng trong đoạn thơ này, ngoài hình ảnh là việc sử dụng những từ xưng hô tạo một quan hệ tình cảm đầy máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với cách gọi này, tất cả như quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung một dòng máu, một huyết thống Rồng – Tiên. Đó là từ mẹ, từ cha, từ bà, dân mình quá đỗi ngọt ngào trong những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy bản sắc Việt Nam ấy. Chúng tạo nên một phong vị, một sức gợi đầy thẩm mĩ về Đất Nước, con người Việt Nam, thân ái, thủy chung, giàu truyền thống, giàu tình nghĩa, đạo lí làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất riêng rất chung về đất nước.
Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Định nghĩa ấy vừa thật độc đáo lại vừa giàu chất suy tưởng. Hóa ra đất nước không phải là một cái gì cao xa, trừu tượng. Nó tồn tại nơi mọi người, nơi anh nơi em, nơi tình yêu, nơi em đà trót đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Đất nước như vậy lẽ nào không là hình ảnh thiêng liêng, đầy trân trọng và khăng khít với mỗi chúng ta?
Ở đây, sự khăng khít lại càng khăng khít hơn khi hình ảnh đất nước ấy hiện lên qua những truyền thuyết lộng lẫy mà sâu lắng. Đó là nơi Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá ngư ông móng nước biển khơi, là nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra trăm trứng, mở mang bờ cõi về biển, về rừng.
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Đó là nơi biết giữ gìn đạo nghĩa Uống nước nhớ nguồn như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu, làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Đó là nơi mọi người không tiếc máu xương cùng đoàn kết nhất trí để hóa thân cho dáng hình xứ sở, để làm nên Đất Nước muôn đời. Đất nước ấy còn biết ước mơ,còn biết khao khát, còn biết sống và ấp ủ bằng hơi thở bình yên, lòng nhân ái:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước, vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Có thể khẳng định rằng, sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong phú, đa dạng. Tất cả lại được diễn tả với một giọng thơ hết sức tự nhiên, không ồn ào của hình thức thơ – văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mĩ càng lớn. Điều đáng nói là từ những hình ảnh đó, với sức suy tưởng lo lắng của một trí thức trẻ khả năng gợi mở, vang ngân, liên tưởng của thơ càng lớn. Nó đủ sức để khái quát một cách đầy đủ tầm vóc, thế đứng, dáng đứng của một Đất Nước trong chiều hướng ấy thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sứ, chiều dài và chiều sâu của thời đại. Đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại, tương lai. Một vẻ đẹp nói như Tố Hữu:
Ta đứng dây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.
Không nghi ngờ gì nữa, đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng xứng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, đất nước và con người Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Bài làm 3
Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”. “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước giản dị, gần gũi nhất”. Rút ra từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những sáng tạo dộc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…………………………..
Đất Nước có từ ngày đó
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thơ năm chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điêm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư. Bài thơ Đất Nước là một đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Đất Nước là phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” – tác phẩm được ra đời vào năm 1971, giữa lúc của kháng chiến chống Mĩ diễn ra khốc liệt.
Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những “cái ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn bây giờ
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đất Nước vốn là giá trị bền vững, vĩnh hằng; Đất Nước được tạo dựng, bồi đăp qua nhiều thế hệ, được truyền từ đời này, sang đời khác: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Đứng trước một Đất Nước thiêng liêng như thế, lòng thơ dâng trào niềm xúc động và thành kính. Hai từ “Đất Nước” được viết hoa một cách trang trọng. Dó là cách mà nhà thơ thể hiện niềm tự hào và lòng thành kính trước Đất Nước của mình. Khi ta cất tiếng khóc chào đời, khi ta lớn lên, Đất Nước đã hiện hữu. Đât Nước có từ bao giờ/ Suy ngẫm về cội nguồn của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm bỗng phát hiện: Đât Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ kể/ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn. Mẹ Đất Nước vừa cổ kính lâu đời vừa bình dị, mộc mạc hiện ra trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện cao dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.
Cùng với tục ăn trầu, Đât Nước còn, gắn liền với những phong tục khác:
– Tóc mẹ thì bới sau đầu
– Cái kèo cái cộ thành tên
Thân thương, mộc mạc biết chùng nào là búi tóc sau đầu của mẹ, là những nếp nhà dựng lên từ cái kèo, cái cột, mái lá, tường rơm, vách đất; là cách đặt tên con giản dị nôm na. Mộc mạc, thân thương vật như đó cũng là một phần của Đất Nước. Và Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Hình ảnh Đất Nước thật thân thuộc với những lũy tre xanh rì, những búp măng non bật mình vươn thẳng. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây trẻ trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh binh dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người.
Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước còn ẩn mình trong những vật nhỏ bé nhất. Đất Nước ẩn mình trong hạt muối, nhánh gừn; đằm sâu trong tình thương mẹ cha: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Được chắt lọc từ văn hóa dân gian, câu thơ trầm tích những ý từ xâu xa. Dù sống cuộc sống thiếu thốn, gian khổ, cha mẹ ta vẫn thương yêu nhau như gừng cay muối mặn, vẫn gắn bó trước sau, mặn mà, đinh ninh. Đất Nước mình giản dị thân thương là thế. Hình ảnh Đất Nước còn có trong từng bông lúa, củ khoai: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Hình ảnh thơ giản dị nhưng gợi ra tập quán sản xuất gắn liền với văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam. Để làm ra hạt gạo trắng ngần, bát cơm thơm, người nông dân phải dầm sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tỉ mỉ xay, giã, dần, sàng. Hình ảnh thơ gợi lên bao sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn cùng phẩm chất cần cù, chịu khó của những người chân lấm, tay bùn.
9 câu đầu khép lại bằng tứ thơ khái quát về thời điểm hình thành Đất Nước: Đất Nước có từ ngày đó. Ngày đó vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khú vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy.
Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào vể Đất Nước.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Bài làm 4
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ.
Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần, sinh động lạ thường, mang đậm dấu ấn con người Việt. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".
Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gơi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.
Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay – giã – dần – sang” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào:
“Đất Nước có từ ngày đó”
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thànhi ính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm – Bài làm 5
Đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thuộc phần đầu chương V của bản trường ca " mặt đường khát vọng " được sáng tác ở chiến khu Bình Trị Thiên năm 1971 và xuất bản năm 1974, thể hiện nhiều suy ngẫm và cảm nhận rất độc đáo và mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Trong đó, đoạn đầu của đoạn trích nêu lên cách cảm nhận rất độc đáo về đất nước.
Ở phần 1, đất nước được cảm nhận từ những gì rất gần gũi, bình dị, nhỏ bé, thân thiết trong cuộc sống giản dị hằng ngày.
Để trả lời câu hỏi đất nước là gì? đất nước có từ đâu?, tác giả đã đưa ra cách lí giải rất thú vị: đất nước là nơi ta đã sinh ra, là mảnh đất đã ấp ủ, chắt chiu nuôi ta lớn lên, đất nước hiện hình từ câu chuyện cổ tích của mẹ, từ miếng trầu bà ăn, từ cây kèo cây cột ta ở, hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày cho đến các phong tục tập quán quen : " tóc mẹ thì bới sau đầu ", đến cả đạo lí sống tình nghĩa thủy chung " cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn "… tất cả đều cho thấy đất nước thật bình dị, gần gũi, thân thiết nhưng nó cũng rất bền vững sâu xa bởi nó là bản sắc văn hóa dân tộc, là điệu hồn của dân tộc đã được tồn tại từ ngàn xưa. Nguyễn Khoa Điềm đã để đất nước hóa thân vào cuộc sống hàng ngày, hóa thân vào cổ tích ca dao thần thoại, hình tượng thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã được dệt bằng những sợi tơ óng ánh sắc màu của văn hóa dân gian. Chất dân gian , hồn dân tộc như thấm sâu vào từng câu từng chữ, chính nó đã tạo nên một nghệ thuật vừa gần gũi quen thuộc vừa sâu xa kì diệu, có sức gợi dậy những cảm xúc sâu lắng, gợi lên hồn thiêng của non sông đất nước trong lòng người đọc.
Tác giả sử dụng các yếu tố dân gian nhưng không tái hiện nguyên vẹn mà chỉ mượn ý mượn lời mượn hình ảnh để lồng vào thơ một cách linh hoạt sáng tạo. Như vậy, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm đất nước được hiện thực đầu tiên từ bản sắc văn hóa dân tộc.
Ở phương diện hai, đất nước được nhìn từ phương diện là không gian địa lý, tác giả khai thác hai thành tố đất và nước từ nghệ thuật chơi chữ bằng cách " chiết tự " không những không làm người đọc hiểu sai ý nghĩa vấn đề mà còn tạo nên sự suy luận rất độc đáo : đất và nước kết hợp hài hòa với nhau để tạo nên không gian địa lí rộng của đất nước, không gian ấy là núi sông ruộng đồng, rừng bể mênh mông từ nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc đến nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi , tức là từ rừng xa cho đến biển rộng mênh mông bát ngát , nhưng không gian ấy là không gian sinh tồn của bao thế hệ , là nơi dân mình đoàn tụ và cũng là nơi gắn liền với tình yêu đôi lứa của anh và em.
Ở phương diện ba, đất nước được cảm nhận từ không gian địa lí đến thời gian lịch sử. Đất nước được cảm nhận trong thời gian đằng đẵng nhưng đó không phải là thứ vô tri vô giác mà nó gắn liền với thời gian lịch sử của quá trình dựng nước và giữ nước. Tác giả đã nhắc tới Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng là muốn nhắc đến cội nguồn dân tộc, nhắc đến Vua Hùng là người đã có công gây dựng đầu tiên nên đất nước này. Tiếp đó là các thế hệ nối tiếp nhau trong suốt bốn nghìn năm lịch sử cùng đóng góp phần mình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Không chỉ dừng lại ở văn hóa, địa lí và lịch sử, một cảm nhận vô cùng thấm thía của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước nó không ở đâu xa mà là kết tinh hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. Đó là sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân và vận mệnh chung của cả cộng đồng, không phải là chỉ riêng cá nhân ấy mà nó là của đất nước bởi mỗi chuyển động đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần của dân tộc và đất nước.
Đất nước ở trong ta là máu xương của mình đòi hỏi mỗi con người, đòi hỏi anh và em phải biết gắn bó thương yêu, phải có trách nhiệm với đất nước, tình yêu đất nước là tình yêu máu thịt, yêu chính sự sống của mình cho nên " phải biết gắn bó và san sẻ", " phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở ". Tức là phải biết cống hiến và khi cần phải biết hi sinh để " làm nên Đất Nước muôn đời ". Nếu mọi người dân trên đất nước đều có ý thức trách nhiệm, đều biết gắn số phận cá nhân với số phận cộng đồng, biết yêu thương trân trọng, đóng góp dựng xây, giữ gìn và bảo vệ sẽ tạo nên một đất nước hài hòa, lớn lao, thắm đẹp trường tồn đến muôn đời.
Có thể thấy ở đoạn đầu, cách cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vừa tổng hợp toàn vẹn vừa sâu sắc thấm thía, cho người đọc hiểu rõ được vẻ đẹp độc đáo , thiêng liêng một cách khái quát rõ rệt nhất.
Từ khóa tìm kiếm
- phan tích 9 cau tho đau cua bai tho đat nuoc
- phân tích 9 cầu đầu bài thơ đất nước
- phân tích đất nước 9 câu đầu
- cảm nhận 9 câu đầu bài đất nước
- cam nhan chat lieu van hoa dan gian trong 9 cau dau bai dat nuoc
- phan tich 9 cau tho dau bai tho dat nuoc
- phân tích 9 câu đầu bài đất nước
- phân tích 9 câù đầu của bài thơ đất nước
- đất nước (nguyễn khoa điềm) học 9 câu đầu