24/05/2017, 12:13

Cảm nhận sau khi đọc truyện Hai đưa trẻ của Thạch Lam

Đề: Cảm nhận của anh (chị) sau khi đọc truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam. ''Nơi phố huyện xưa của Thạch Lam, chị em Liên và những bóng người thầm lặng đợi chờ tiêng trông thu không man mác,...'' BÀI LÀM Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc xong truyện ngắn Hai đứa trè của Thạch ...

Đề: Cảm nhận của anh (chị) sau khi đọc truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam. ''Nơi phố huyện xưa của Thạch Lam, chị em Liên và những bóng người thầm lặng đợi chờ tiêng trông thu không man mác,...''

BÀI LÀM

Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc xong truyện ngắn Hai đứa trè của Thạch Lam, gấp trang sách lại rồi, dường như tôi vẫn nghe âm vang tiếng trống thu không, cái tiếng trống phát ra “trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Tiếng trông ấy vein là thứ âm thanh bình thản để báo giờ khắc. Nhưng trong câu văn Thạch Lam nó không còn dửng dưng, bình thản nữa. Trong buổi chiều quê “êm ả như ru” trong khung cảnh “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” thì tiếng trông vang lên tha thiết như một tiếng gọi, thức dậy ở cảnh vật, ở lòng người cảm giác bâng khuâng mơ hồ, man mác. Thì ra tiếng trống dường như cũng mang nỗi bâng khuâng. Và trong buổi chiều quê tĩnh lặng ấy nó như vang xa hơn, lay động lòng người nhiều hơn. Nguyên Tuân có nói rằng, với ông khó nhất khi viết truyện là tạo được một không khí nào đó. Khi đã tạo được rồi thì mạch truyện cứ thế mà tuôn chảy. Thạch Lam, với tiếng trông thu không để bắt đầu câu chuyện về những con người bé nhỏ, đã tạo được một không khí riêng, một mạch nhịp riêng cho thiên truyện của mình.

Trong buổi chiều quê mơ hồ và man mác ấy, mọi thứ hiện lên thật lặng lẽ. Âm thanh dường như cố nhỏ lại, màu sắc nhòe đi, hoạt động của con người cũng thật khẽ khàng. Thạch Lam đã lắng nghe được nhịp cuộc đời trong sự tĩnh lặng ấy. Ông dường như nghe được cả tiêng rì rào của đất đai, hơi thở của cây cỏ và nỗi buâng khuâng của lòng người mà tiếng trông kia vừa thức dậy. Ông cảm nhận được từ “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo gió nhẹ đưa vàú” cho đến tiếng “muỗi đã bắt đầu vo ve”... Những âm. thanh nhẹ và mỏng như thoảng trong gió ấy tạo nên cảm giác yên tĩnh của chiều quê và sự tế nhị của cảm xúc. Ông nhìn thấy cảnh vật cũng nhòe đi theo nỗi buâng khuâng. “Dãy tre làng trước mặt đã đen lại”; “cửa hàng hơi tối”, chợ “đã vãn từ lâu”, “người về hết và tiêng ổn ào cũng mất”... Trong cái không khí man mác lặng lẽ ấy, nhân vật chinh của truyện - hai chị em Liên - xuất hiện cùng với nỗi bâng khuâng mơ hồ mà chỉ có trái tim giàu cảm thông và nhạy cảm của Thạch Lam mới cảm nhận được: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thâm thìa vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao nhưng thấy lòng man mác trước giờ khắc của ngày tàn”.

Thạch Lạm chọn cái “giờ khấc của ngày tàn” để miêu tả những con người bé nhỏ nơi một phố huyện khuất lấp sau bóng thị thành. Cái thếgiới của họ dường như càng buồn bã hơn khi nó được bắt đầu vào giờ tàn của ngày và kéo dài trong đêm tối mênh mông. Nhưng đây cũng chưa hẳn là bóng đêm tôi đáng sợ như nhiều người đã lầm tưởng. Bóng đêm ấy đã hiện lên với không ít chất thơ và sự dịu dàng. “Trời đã hắt dầu đcm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Một đêm phố huyện “trẻ con tập hợp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ”. Một đêm phô huyện với “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”... Đây là một đêm rất riêng của vùng quê mà chị em Liên cảm nhận được. “Một mùi âm ẩm hốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất của quê hương này”... Và khi mọi xáo động đi qua, đêm tôi mênh mông kia dường như che chở, bao bọc, cho ta cảm giác bình yên. “Đêm tối vẫn hao học chung quanh, dèm của đất quê, và ngoài kia, dồng ruộng mênh mang và yên lặng”... Có lẽ đây là những dòng miêu tá hay nhất về đêm miền quê rất đỗi bình dị, thân thiết mà ta có được trong văn chương. Phải nặng lòng gắn bó với quê hương nhiều lắm mới cám nhận một cách sâu sắc và tha thiết đến như vậy.

Trong bóng đêm lặng lẽ ấy dỗ khiến lòng người nao nao. Thạch Lam đã nao lòng trước cảnh mấy đứa bé đang nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên nền chợ trống trơn. Ông đã nao lòng trước hình ảnh bóng tối ngập đầy dần đôi mắt trẻ thơ. Bây giờ ông lại nao nao trước cảnh sinh hoạt và bóng dáng những cuộc đời thầm lặng nơi phố huyện này. Trước cái thế giới âm thầm và lặng lẽ của những con người bó nhỏ, nhà văn như muôn đưa lòng mình ra mà cảm thông, mà chia sẻ và che chở cho họ, cho những cuộc đời lặng lẽ như những cái bóng trong đêm. Đó là mẹ con chị Tí ngày ngày “mò cua bắt tép, tôi bán hàng nước, chá kiếm dược bao nhiêu, nhưng chiều nào cũng dọn hàng” như chờ đợi một sự may mắn nào đó. Đó là “vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bàng mấy tiếng dàn bầu bật trong yên lặng”. Rồi bác phở Siêu, bà cụ Thi, một bà già hơi điên điên... Từng ấy con người, từng ấy cuộc đời đã hợp thành phô huyện. “Chừng ấy con người trong bóng tôi mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Thạch Lam không chỉ miêu tả, mà ông suy gẫm, tạo nôn một “tiếng nói” rất riêng vọng lên từ những cuộc đời khuất lấp và lầm lụi kia. Có một nhà phê bình văn học đã nói ràng “Văn học không chỉ là sự đời, mà là tiếng nói của con người về cuộc đời”. Vận vào ván Thạch Lam thật đúng.

Thạch Lam nhìn thế giới cua những con người bé nhỏ kia như đang chìm đắm vào bóng tôi. Họ là những con người, đúng hơn là những cái bóng, bé nhỏ trong cái bóng đêm mênh mông của kiếp người. Họ hiện ra trong bóng tôi lờ mờ của những ngọn đèn không đủ sáng. Đó là một thế giới đầy bóng tôi mà ánh sáng mới hiếm hoi làm sao! Trong cái thế giới bóng đêm ấy, ánh đèn bác phở Siêu chỉ là “một khe ánh sáng”... Có lô chưa mấy ai miêu tả ánh sáng là chấm,hộtkhe một cách riết róng như

Thạch Lam. Hình như để đôi lập lại, ông miêu tả bóng tối thật tràn trề: “Tôi hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con dường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm den hơn nữa”. Bóng tôi dày đặc đến độ dường như cản cả âm thanh lại: “Trông cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiêng ngắn khô khan, không vang dộng ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”.

Cái ánh sáng rực rỡ của một “Hà Nội nhiều đèn quá” đôi với chị em Liên chỉ còn trong kỉ niệm của một thời đã qua mà bây giờ trở thành nỗi khát khao. Cái ánh sáng của “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh” lại quá xa xôi, thuộc về “vũ trụ thăm thẳm bao la”,đầy bí mật và xa lạ”, “làm mỏi trí nghĩ”... Thành ra, những con người như chị em Liên lại quay về vầng sáng nơi mặt đất, “quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”. Đây là quầng sáng cứ trở đi trở lại trong truyện, trở đi trở lại trong tâm trí Liên như một thứ “ám ảnh” về cái thực tại mà cô đang có. Cái thực tại mà khi “những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn”, khi chập chờn trong giấc ngủ, Liên nhận ra “thấy minh sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiêc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Tác giả xa xót cho những cuộc đời bé nhỏ như những “chiếc đèn con”, “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Tất cả tình thương của ông tụ hội lại nơi quầng sáng bé nhỏ này đây khiến cho ông đã thông cảm được với họ, lắng nghe được khát vọng của họ.

Trong thăm thẳm của bóng đêm âm u, ông vẫn nhìn thấy ở họ lấp lánh mơ ước. Mơ ước về cái gì tươi sáng hơn. Và hình ánh một đoàn tàu mang một thứ ánh sáng đi qua nơi phô huyện đã trở thành nỗi khát khao của những người như chị em Liên. Thế là hình ảnh hai đứa trỏ cứ đêm đêm cô thức đợi tàu trở thành nỗi ám ảnh không thế quên của người đọc. Hai chị em cô đợi chuyên tàu từ Hà Nội về. Cho nên dù “chuyên tàu đêm nay không dông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn” vẫn là nỗi thổn thức của chị em Liên. Bởi “họ ở Hà Nội về, Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã dem một chút thè giới khác di qua. Một thế giới khác hẳn, đối vớiLiên, khác hẳn các vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh sáng lửa của bác Siêu”. Mà nào đâu chỉ chị em Liên. Cả phô huyện tĩnh lặng bỗng “náo dộng” lên vì chuyến tàu. Hình như ai cũng đợi chuyên tàu, “sự hoạt dộng cuối cùng của đêm khuya”, và hình như còn chờ đợi một cái gì đó khác nữa. Hình ảnh đoàn tàu gợi cho ta hình ảnh “cánh buồm đỏ thắm” của Grin. Hai hình ảnh khác nhau mà niềm hi vọng, nỗi khát khao gần gũi nhau biết dường nào. Cho nên, chuyên tàu đã đi qua mà ánh mắt của chị em Liên vẫn bị hút theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”... Ánh mắt trẻ thơ khát khao hút theo bóng dáng con tàu khiến người đọc nao lòng.

Con tàu đã đi qua. Phố huyện trỡ lại sự tĩnh lặng vốn có. Cô bé Liên cũng đã “ngập vào giác ngủ yên tĩnh” mà không hiểu sao dường như ta vẫn nghe “tiếng còi xe lửa ở đâu vẳng lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Cái âm thanh mơ hồ ấy âm vang trong lòng chị em Liên, trong lòng mỗi người dân nơi phố huyện và trong lòng mỗi chúng ta. Nó không chỉ là âm vang mà là âm vang của khát vọng. Nơi phố huyện xưa của Thạch Lam, chị em Liên và những bóng người thầm lặng đợi chờ tiêng trông thu không man mác, tiếng còi tàu âm u và thăm thẳm trong đêm. Họ chờ đợi và hy vọng, bao nhiêu lần chờ đợi trong đời. Ai chẳng chờ đợi, hy vọng chuyến tàu cùa đời mình. Có lẽ vì vậy mà đọc lại Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ta thấy dư vang cua nỗi lòng ông vẫn gần gũi với chúng ta biết dường nào...

Nguồn:
0