Các nguồn tiết kiệm
Tiết kiệm trong thu chi ngân sách Nhà nước Khoản này còn được gọi là vốn ngân sách chi cho phát triển kinh tế xã hội. Tiết kiệm của ngân sách được xác định bằng thu ngân sách trừ đi chi thường xuyên. Tiết kiệm của ngân ...
Tiết kiệm trong thu chi ngân sách Nhà nước
Khoản này còn được gọi là vốn ngân sách chi cho phát triển kinh tế xã hội. Tiết kiệm của ngân sách được xác định bằng thu ngân sách trừ đi chi thường xuyên. Tiết kiệm của ngân sách phụ thuộc vào 3 yếu tố: Thu, chi ngân sách và chất lượng đầu tư của chính phủ. Trong trường hợp bội chi ngân sách, Nhà nước sẽ phải đi vay hoặc xin viện trợ để bù đắp vào khoản thiếu hụt đó. ở nước ta, phần bù đắp cho thâm hụt ngân sách chủ yếu được thực hiện bằng các khoản vay ODA và vay trong dân. Hai kênh này sẽ được bàn đến trong từng phần riêng biệt. Vì thế, phần vốn từ NSNN ở đây chủ yếu được hiểu là phần tích luỹ từ nguồn thu trong nước của ngân sách, sau khi đã chi trả cho các khoản chi thường xuyên, dự phòng hoặc trả nợ.
Tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước
Để tiến hành đầu tư sản xuất, nhiều doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư bằng vốn huy động từ phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh các nguồn vốn khác như vay trực tiếp từ dân cư, vay nước ngoài hoặc nhận từ NSNN. Để tránh trùng lặp với các nguồn vốn khác, phần này cũng chỉ phân tích sâu vào nguồn tiết kiệm của bản thân các doanh nghiệp này mà thôi.
Tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân
Mặc dù là một khu vực kinh tế tương đối non trẻ so với khu vực Nhà nước, nhưng khu vực tư nhân Việt Nam đang chứng tỏ một sức vươn lên mạnh mẽ và đầy hứa hẹn trong tương lai. Khu vực tư nhân của Việt Nam hiện nay bao gồm nông dân, các doanh nghiệp hộ gia đình, DNTN vừa và nhỏ ( SMEs ) và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối lớn.
Tiết kiệm của các tầng lớp dân cư
Nguồn vốn trong dân luôn là một nguồn rất lớn, và có nhiều khả năng tăng cường huy động để phát triển kinh tế. Cơ sở chủ yếu để huy động nguồn vốn này chính là tiết kiệm trong dân cư. Nếu các kênh huy động vốn hoạt động có hiệu quả thì đại bộ phận nguồn tiết kiệm trong dân đó sẽ sẵn sàng tích trữ nguồn tiết kiệm đó dưới dạng mua vàng, ngoại tệ hoặc các tài sản có giá trị, thay vì gửi chúng vào ngân hàng hay các kênh huy động tài chính khác. Đó sẽ là một sự lãng phí nguồn lực rất lớn đối với một đất nước còn đang rất khát vốn đầu tư như chúng ta. Có được vốn huy động rồi , nếu muốn biến chúng thành vốn đầu tư thực hiện, đòi hỏi ngân hàng và các tổ choc tín dụng phải có những chính sách cho vay hấp dẫn, môi trường đầu tư thuận lợi đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất. Vì thế, tăng cường thu hút vốn trong dân mà không có các biện pháp khuyến khích đầu tư thì sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng trong ngân hàng như tình hình của Việt Nam trong những năm 1996 - 1997.
Thái Lan
Năm 1997, Thái Lan đang đắm chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới đã được chứng kiến hình ảnh cảm động người dân Thái lũ lượt đi quyên góp để cứu ngân khố nước nhà. Có lẽ cũng từ kinh nghiệm đó, lúc này đang có ngày càng nhiều nhà nghiên cứu, phân tích kinh tế Thái Lan lên tiếng kêu gọi Chính phủ thực hiện chủ trương tiết kiệm để giải quyết những khó khăn kinh tế - xã hội của đất nước.
Có điều, tiết kiệm ở đây không theo nghĩa thông thường, mà phải là sự kết hợp vận động của tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua cả khu vực Nhà nước lẫn khu vực tư nhân. Theo báo Matichon, một tờ báo lớn có uy tín ở Thái Lan, tiền gửi tiết kiệm dù chỉ là phần của thu nhập còn dư lại sau khi chi tiêu nhưng có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy kinh tế ở cấp vĩ mô cũng như trong ổn định kinh tế của các cá nhân, các tổ chức tư nhân. Tờ báo viết: ở cấp vĩ mô, nếu ngành kinh tế nào không đủ tiền tiết kiệm cho đầu tư theo mong muốn của ngành mình thì sẽ phải lệ thuộc vào đầu tư từ bên ngoài một cách triền miên. Do vậy, tiền tiết kiệm trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Các nhà lãnh đạo kinh tế cần phải xây dựng điều kiện và môi trường thu hút thích hợp để hạn chế việc xảy ra tình trạng quá nóng đồng thời đầu tư ở mức thích hợp với lượng tiền tiết kiệm theo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp tình hợp lý.
Đối với việc gửi tiết kiệm từ khu vực tư nhân, hệ thống điều hành tốt của các tổ chức, tức là mức độ minh bạch, công bằng trong làm việc ( người lãnh đạo không tham nhũng của công ty và của các cổ đông ) cũng góp phần tạo ra tiền gửi tiết kiệm ( bao gồm cả phần dư của số lãi từ phân chia lợi nhuận mà cổ đông được hưởng ) một cách có hiệu quả.
Đối với khu vực Nhà nước, tiền gửi tiết kiệm bao gồm phần thu nhập thực sự còn lại sau khi chi tiêu sẽ xuất hiện khi công tác điều hành hoạt động tốt. Tiền NSNN không bị biển thủ dẫn tới chi tiêu hợp lý vào các dự án đúng đắn. Nói tóm lại là phải có tầm nhìn tài chính trong khu vực Nhà nước để tạo ra được số dư tiết kiệm.
Do vậy, cách hiểu coi tiền gửi tiết kiệm chỉ là vấn đề kinh tế có thể giải quyết đơn thuần bằng biện pháp kinh tế như tỷ lệ lãi suất là cách hiểu sai. Phải huy động tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân và nhân dân thì mới có thể giải quyết được vấn đề tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn cũng như dài hạn. Một ví dụ khác về việc không chỉ dùng biện pháp kinh tế mà phải kết hợp nhiều lĩnh vực để giải quyết khó khăn là sự ủng hộ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tờ báo viết: nhìn chung, người ta quan niệm rằng biện pháp tiền tệ là sự ủng hộ quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng thực ra tiền tệ mới chỉ là biện pháp cần chứ chưa đủ. Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Lan tuy đã được đáp ứng trong giai đoạn xảy ra khủng hoảng kinh tế nhưng còn có những điều khác biến doanh nghiệp nhỏ trở thành mạch máu kinh tế. Đó là kinh nghiệm và trình độ kinh doanh, bao gồm từ vạch kế hoạch, đánh giá tình hình và triển vọng lưu thông tiền mặt, tính khả thi của kế hoạch, cho tới vấn đề tài chính, kế toán.
Chilê và Singapore
Hai quốc gia rất thành công trong vấn đề tiền gửi tiết kiệm. Chilê sử dụng hệ thống tiết kiệm bắt buộc, đòi hỏi trích tiền thu nhập của mọi cá nhân lao động để thành lập ngân quỹ. Biện pháp này đã trở thành kiểu mẫu được áp dụng ở khắp thế giới. Singapore cũng áp dụng hình thức tương tự để tạo ngân quỹ và đem đi đầu tư khắp thế giới. Điều này tạo ra ngân quỹ ổn định cho đời sống nhân dân lúc đang làm việc cũng như khi về hưu.
Từ những nội dung nêu trên, việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm cơ sở sinh sống cho không ít người lao động cần phải bao gồm các biện pháp toàn diện, chứ không đơn thuần hỗ trợ về tiền tệ. Nghĩa là, phải quan tâm đào tạo, hướng dẫn về hoạch định kinh doanh, hệ thống kế toán, tài chính cho doanh nghiệp. Đặc biệt, các nhà kinh doanh này phải thay đổi cách nhìn và tập quán để có khả năng tồn tại lâu dài trong thế giới kinh doanh hiện đại. Đã qua rồi thời chộp giật lợi nhuận bằng cách lừa gạt hoặc ép buộc người tiêu dùng, tổ chức lao động thiếu hiệu quả, quản lý kém cỏi của mọi doanh nghiệp, dù ở quy mô nào. Nếu như các khó khăn kinh tế có thể giải quyết thuần tuý bằng các biện pháp kinh tế thì khủng hoảng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới đều đã dễ dàng được tháo gỡ và các nhà kinh tế học sẽ là thần tượng của đông đảo công chúng. Nhưng trên thực tế, các kho khăn kinh tế đan xen từ nhiều góc độ và mọi biện pháp giải quyết đều là liều thuốc đắng ở mức độ nhất định. Tức là, sẽ phải có người mất việc làm, có người bị thiệt hại, mất mát địa vị trong doanh nghiệp và nếu không giải quyết dứt điểm thì còn có thể kéo theo những phát sinh nghiêm trọng khác.