Các hình thức và nội dung mở rộng XNK
Các nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá là hoạt động thương mại liên quan đến mua và bán hàng hoá với thị trường nước ngoài bao gồm cả tái xuất khẩu (Reexport) và tái nhập khẩu (Reimport ) Tái xuất khẩu : Là xuất ...
Các nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá là hoạt động thương mại liên quan đến mua và bán hàng hoá với thị trường nước ngoài bao gồm cả tái xuất khẩu (Reexport) và tái nhập khẩu (Reimport )
Tái xuất khẩu :
Là xuất khẩu hàng đã nhập về trong nước, không qua chế biến thêm, cũng có trường hợp hàng không về trong nước, sau khi nhập hàng, giao hàng đó ngay cho người thứ ba. Như vậy ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao.
Tái nhập khẩu.
Là nhập khẩu từ nước ngoài mà hàng trước đó đã xuất khẩu nhập lại hàng đó không qua chế biến.
Về nguyên lý nghiệp vụ tái xuất khẩu và tái nhập khẩu không tính vào hàng xuất khẩu hay hàng nhập khẩu mạc dù phải quá thủ tục hải quan.
Nhiều hàng tái xuất thực hiện ở các khu tự do thương mại, khu này nằm ngoài vòng kiểm tra của hải quan. Hàng nhập vào khu này không nộp thuế hải quan kể cả hàng nhập để tái xuất đi nước khác. Nhưng nếu hàng này từ khu tự do thương mại lại chuyển vào các vùng khác của nước đó (nước chủ nhà khu tự do thương mại ) thì phải nộp thuế nhập khẩu theo tỷ lệ chung của hải quan.
Ví dụ:
Mỹ : New York, New orleau, Los Angeles , Cietle, Sanfranciseo.
Anh : Cảng London.
Thuỵ Điển : Cảng Gofeborg , Stockholm Maemo.
Đan Mạch : Gopenhagen.
CHLB Đức : Hambourg.
Xuất khẩu và nhập khẩu trực tiếp
Các nhà sản xuất công nghiệp giao hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nước ngoài và mua hàng trực tiếp nhập hàng của người sản xuất
Về nguyên tắc mặc dù xuất khẩu trực tiếp có làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh song nó có những ưu điểm sau:
Giảm bớt lợi nhuận trung gian sẽ làm tăng chênh lệch giữa giá bán và chi phí, tức là làm tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất
Người sản xuất có liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, với thị trường, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng do đó có thể thay đổi sảm phẩm và các điều kiện bán hàng rong điều kiện cần thiết
Xuất khẩu và nhập khẩu gián tiếp.
Là hình thức khi doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu nhập khẩu để tiến hành XNK.
Hình thức xuất khẩu gián tiếp khá phổ biến ở những doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế .
Hình thức này có ưu điểm cơ bản là:
- ít phải đầu tư.
- Doanh nghiệp khong phải triển khai một lực lượng bán hàng ở nước ngoài cũng như các hoạt động giao tiếp và khuyếch trương ở nước ngoài.
- Hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra ở thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, hình thức này cũng có hạn chế là giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do phải chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ và do không có liên hệ trực tiếp với thị trường nước ngoài nên việc nắm bắt các thông tin về thị trường nước ngoài bị hạn chế, không thích ứng nhanh được với các biến động của thị trường.
Tạm nhập, tái xuất.
Như đưa hàng đi triển lãm, đưa đi sửa chữa rồi lại mang về
Tạm xuất, tái nhập.
Như đưa hàng vào dự triển lãm, hội chợ, quảng cáo sau đó đưa về
Chuyển khẩu.
Là hàng mua của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục XNK. Như vậy, trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho, lưu bãi, bảo quản…Bởi vậy mức độ rủi ro trong hoạt động nói chung là thấp và lợi nhuận cũng không cao.
Dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu.
Như gửi đại lý hay thuê người sửa chữa
Xuất khẩu tại chỗ.
Trong trường hợp này hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế… Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thê đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh.
Khái niệm thị trường và vai trò của thị trường trong hoạt động XNK.
Khái niệm thị trường.
Thị trường là con đẻ kinh tế hàng hoá và sự phát triển của phân công lao động xã hội. Như VI. Lênin đã vạch rõ: “ nơi nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hoá nơi đó có thị trường .’’
Trong điều kiện sản xuất nhỏ, thị trường hàng hoá nhỏ hẹp, trình độ phát triển thấp. Đến thời kỳ chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hoá phát triển nhanh chóng, qui mô thị trường hàng hoá mở rộng chưa từng có, phạm vi giao dịch càng rộng, vừa có hàng hoá hữu hình, vừa có hàng hoá vô hình , thậm chí sức lao động cũng trở thành hàng hoá. Hơn thế nữa kinh tế hàng hoá đã vượt qua giới tuyến dân tộc, vượt qua biên giới quốc gia làm xuất hiện thị trường có tính thế giới.
Theo quan điểm kinh tế học thì “ Thị trường là tổng thể của cung và cầu đối với một loại hàng hoá nhất định trong một không gian và thời gian cụ thể.’’
Đứng trên giác độ quản lý một doanh nghiệp, khái niệm thị trường phải được gắn với các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua, người bán ,người phân phối…với những hành vi cụ thể của họ
Mặt khác trong điều kiện kinh doanh hiện đại thì trong khái niệm thị trường yếu tố cung cấp đang mất dần tầm quan trọng, trong khi đó nhu cầc và sự nhận biết nhu cầu là những yếu tố ngày càng quyết định đối với hoạt động của doanh nghiệp. Do đó có thể đưa ra khái niệm thị trường quốc tế như sau : Thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó.
Vai trò của thị trường đối với hoạt động XNK.
Thị trường là môi trường hoạt động của mọi doanh nghiệp. Để thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh thì tự bản thân doanh nghiệp phải biết củng cố và phát triển cho môi trường hoạt động của mình, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Hoà theo xu thế quốc tế hoá, ngày nay nhiều doanh nghiệp mở rộng việc đưa sản phẩm ra tiêu thụ ở thị trường nước ngoài bằng cách xuất khẩu, dây là cách dễ thực hiện và thường được sử dụng cả đối với những doanh nghiệp mới tham ra vào thị trường quốc tế cũng như những doanh nghiệp đã có những kinh nghiệm. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, thị trường ngày càng trở nên mang tính toàn cầu. Chính vì vậy, thị trường có vai trò rất lớn đối với hoạt động XNK
+ Thị trường là nơi tiêu thụ hàng hoá XNK : mọi hàng hoá sẽ được đem ra trao đổi mua bán trên thị truờng, đáp ứng nhu cầu cân bằng giữa cung và cầu.
+ Thị trường là sự tồn tại của doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp hay Công ty nào tham gia vào hoạt động kinh doanh XNK đều coi trọng thị trường vì nó là khâu then chốt quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
+ Thị trường là nơi cung cấp thông tin cho người sản xuất, người tiêu dùng và cả người kinh doanh thương mại. Thị trường chỉ rõ nhữmg biến động về nhu cầu xã hội, số lượng giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng hoá dịch vụ. Đó là những thông tin cực kỳ quan trọng đối với người sản xuất hàng hoá, giúp họ điều chỉnh sản xuất cho quan hệ cung cầu, thay đổi qui cách mẫu mã cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu, sản xuất hàng hoá theo mốt mà người tiêu dùng đòi hỏi…
Sự hình thành, phát triển của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.Thị trường có vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển, mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Chiến lược mở rộng thị trường.
Có hai loại chiến lược khác nhau trong mở rộng thị truờng nước ngoài là chiến lược tập trung (hay quốc tế hoá từng bước ) và chiến lược phân tán (hay quốc tế hoá toàn cầu ) .Chúng đặc trưng cho những bước đi khác nhau trông quá trình bành trướng ra thị trường nước ngoài.
Chiến lược tập trung.
Chiến lược này có ưu điểm cơ bản là do chỉ thâm nhập vào một số ít thị trường nên dễ tập trung đuợc các nguồn lực của doanh nghiệp, việc chuyên môn hoá sản xuất và tiêu chuẩn hoá sản phẩm đạt được mức độ cao hơn, hoạt động quản lý trên các thị trường đó cũng thực hiện được dễ dàng hơn. Mặt khác do tập trung được các ngùn lực của doanh nghiệp nên tạo được các ưu thế cạnh tranh cao hơn tại các thị trường đó. Tuy nhiên, chiến lược này có nhược điểm cơ bản là do chỉ hoạt động trên một sdố ít thị trường nên tính linh hoạt trong kinh doanh bị hạn chế, các rủi ro tăng lên và khó đối phó khi có hững biến động của thị trường.
Chiến lược phân tán.
Được đặc trưng bằng việc mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cùng một lúc sang nhiêù thị trường khác nhau. Chiến lược này có ưu điểm chính là tính linh hoạt trong kinh doanh cao hơn, hạn chế được các rủi ro trong kinh doanh song do hoạt động kinh doanh bị dàn trải nên khó thâm nhập sâu và hoạ động quản lý cũng phức tạp hơn, chi phí thâm nhập thị trườnh lớn hơn.
Xem xét trên từng thị trường cụ thể các ưu điểm và hạn chế của hai chiến lược trên cũng thể hiện khác nhau. Chẳng hạn về chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp, việc mở rộng chủng loại sản phẩm sang nhiều thị trường khác nhau trong chiến lược phân tán cho phép rút ngắn vòng đời của sản phẩm theo nguyên tắc thâm nhập và rút lui nhanh tạo ra những cản trở cho những đối thủ cạnh tranh và mang lại lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp. Ngược lại, việc lựa chọn có mục đích một số ít thị treường để phát triểnchiều sâu lại tạo ra sự phân chia thị trường cao hơn, tạo nên vị trí cạnh tranh vững chắc hơn
Việc phân biệt chiến lược tập trung và chiến lược phân tán thì số lượng các thị trường chỉ có ý nghĩa tương đối bởi lẽ khả năng kinh doanh của một doanh nghiệp sẽ thay đổi tuỳ theo tiềm lực và khả năng của doanh nghiệp đó, sự khác biệt giữa các thị trường xuất khẩu, qui mô của chủng loại sản phẩm và các nỗ lực thị trường mà doanh nghiệp phải bỏ ra cho các thị trường khác nhau.
Bản thân khái niệm thị trường cũng không nhất thiết gắn với ranh giới quốc gia. Một thị trường bao gồm nhiều quốc gia hoặc ngược lại có quốc gia lại phải được xem xétlà nhiều thị trươngf tuỳ thuộc vào mức độ khác nhau về kinh tế, xã hội, văn hoá và tập quán tiêu dùng nhiều hay ít. Do đó đẻ đánh giá được mức độ tập trung hay phân tán của chiến lược lựa chọn thị trường thì thay cho chỉ tiêu số lượng thị trường có thể sử dụng chỉ tiêu phần ngân sách của doanh nghiệp được phân phối cho các thị trường khác nhau.
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng thị trường.
Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định về lựa chọn chiến lược mở rộng thị trường của doanh nghiệp vì thế khó có thể lựa chọ dứt khoát một trong hai chiến lược nói trên vì sự ảnh hưởng của các nhân tố theo những hướng khác nhau dễ dẫn đến tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có được những phân tích cơ sơ để đánh giá hững cơ hội mở rộng thị trường thì chúng ta sẽ tạo ra được một bức tranh toàn cảnh giúp doanh nghiệp thấy rõ hiện trạng kinh doanh của doanh nghiệp thích hợp với chiến lược tập trung hay phân tán.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chiến lược mở rộng thị trường XNK sau.
Nhân tố sản phẩm.
Bản chất của sản phẩm (dung lượng, tíh thường xuyên và tính đa dạng), mức độ chuyên môn hoá, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, nội dung hàng hoá tính mua đi bán lại và vòng đời sản phẩm là những nhân tố ảnh hưởng đến việc luựa chọn chiến lựoc mở rộng thị trường. Các đặc tính dung lượng cao, tần số xuất hiện thấp, không mua đi bán lại nhiều lần đặc trưng cho chiến lược phân tán. Ngược lại dung lượng thấp, tần số xuất hiện cao của sản phẩm lại đặc trưng cho chiến lược tập trung.
Đối với các sản phẩm có tính đặc thù, phần thị trường nhỏ thì phải theo chiến lược phân tán để tăng đủ phần tiềm năng thị trường. Tính đặc thù của sản phẩm được biểu thị qua trình độ công nghệ, các đặc điểm của thị trường và dịch vụ.
Vị trí mà sản phẩm đang ở trong chu kỳ sống của nó tại mỗi thị trường cũng có ý nghĩa lớn trong việc lựa chọn chiến lược mở rộng. Nừu vị trí đó khác nhau nhiều tại các thị trường khác nhau thì chiến lược tập trung sẽ có hiệu qủa hơn do doanh nghiệp có thể thâm nhập từng bước thị trường này sang thị trườn khác.Mặt khác nếu sự khác biệt về vị trí sản phẩm trong chu kỳ sống là không đáng kể thì nếu sản phẩm đang ở giai đoạn đầu hay cuối của chu sống tại các thị trường, doanh nghiệp nên theo đuổi chiến lược phân tán để duy trì đáng kể dung lượng thị trường. Ngược lại việc tập trung thị trường sẽ thích hợp khi sản phẩm đang ở giai đoạn tăng trưởng và chín muồi, lúc mà sự cạnh tranh về giá cả đang trở nên mạnh mẽ.
Nhân tố thị trường.
Đặc tính của thị trường ( như phạm vi, sự biến động, tính khong đồng nhất, mức độ cạnh tranh, sự tín nhiệm của khách hàng đối với dôanh nghiệp ) có ảnh hưởng đến việc lựa chọn chiến lược thị trường. Nừu thị trường có tiềm năng lớn và ổn định thì thích hợp hơn với chiến lược tập trung còn nếu thị trường nhỏ và không ổn định thì lại thích hợp hơn với chiến lược phân tán. Mặt khác nếu công ty đang có ưu thế cạnh tranh và khi các thị trường chủ yếu không bị các đối thủ mạnh lấn áp thì chiến lược tập trung lại hợp lý hơn.
Tốc độ tăng trưởng của thị trường cũng có ý nghĩa quan trọng. Nừu thị trường có tốc độ tăng trưởng thấp thì doanh nghiệp có thể đạt được dung lượng lớn nhờ đa dạng hoá thị trường. Lúc này chiến lược phân tán sẽ có lợi cho các doanh nghiệp có nguồn lực hạn chế.
Trong trường hợp không có sự khác biệt cơ bản trong điều kiện thị trường thì chiến lược phân tán lại hấp dẫn hơn. Điều đó cũng có thể xảy ra khi có nhiều cản trở trong việc thâm nhập thị trường và nếu sự tín nhiệm của khách hàng ở thị trường đó với doanh nghiệp không cao.
Nhân tố chi phí Marketing.
Chi phí Marketing và bản chất của những chi phí đó có thể là những nhân tố quan trọng nhất cho việc lựa chọn thị trường. Chi pí Marketing là kết quả của bản chất sản phẩm và tính chất thị trưòng nói chung phụ thuộc vào hình thức hoạt ở thị trường nước ngoài và đòi hỏi ở thị trường đó. Các chi phí Marketing được đo lường trong mối quan hệ với lượng bán và được biểu diễn qua hàm số lượng bán theo những chi phí cho thị trường.