Các hình thức trả công
cơ bản: Trả công theo thời gian Trả công theo sản phẩm Trả công theo thời gian là hình thức trả công căn cứ vào mức lương theo cấp bậc(được quy định trong hệ thống thang bảng lương của Nhà nước và quyđịnh của từng doanh ...
cơ bản:
- Trả công theo thời gian
- Trả công theo sản phẩm
Trả công theo thời gian là hình thức trả công căn cứ vào mức lương theo cấp bậc(được quy định trong hệ thống thang bảng lương của Nhà nước và quyđịnh của từng doanh nghiệp) và thời gian làm việc thực tế của NLĐ.
+ Các mức tiền công được xác định như sau:
- Mức tiền công = Mức lương cấp bậc
- Số lượng thời gian làm viêc;làm việc thực tế
- Mức lương cấp bậc ngày = Error!
- Mức lương cấp bậc giờ = Error!
+Trả công theo thời gian thường được áp dụng trong các trường hợp:
- Công việc khó định mức chính xác và chặt chẽ
- Công việc đòi hỏi chất lượng cao
- Công việc có mức độ tự động hoá cao
- Công việc có tính chất tạm thời
Áp dụng trả công theo thời gian thì đơn giản trong thực hiện việc trả lương nhưng không khuyến khích đượcn tăng lăng xuất lao động.Để khắc phục một phần nhược điểm này,trả công theo thời gian thường được chia làm hai loại: Trả công theo thời gian có thưởng.
Nội dung của chế độ trả công theo thời gian dơn giản thực chất đã dược trình bày ở trên còn chée độ trả công theo thời gian đơn giản với tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng qui định.Áp dụng trả công theo thời gian có thưởng khuyến khích tốt hơn sự nỗ lực tăng năng xuất,tăng chất lượng,tiết kiệm nguyên vật liệu...
Trả công theo sản phẩm là hình thức trả công trong đó tiền công được xác định theo mức lương cấp bậc (được quy định trong hệ thống thang bảng lương Nhà nước và quy định của doanh nghiệp),mức lao động và số lượng sản phẩm thực tế được sản xuất ra và được ngiệm thu.
Trả công theo sản phẩm phản ánh tương đối chuẩn xác lượng lao động thực tế bỏ ra,đồng thời phân biệt được năng lực có thể khác nhau giữa những người cùng làm một loại sản phẩm,lại gắn chặt thu nhập với kết quả lao động cụ thể,kích thích nâng cao trình độ mọi mặt,sử dụng tốt và hợp lí thời gian làm việc và ngỉ ngơi,tăng cường kỷ luật doang nghiệp,cải tiến quản lý doanh nghiệ.Do đó trả công theo thời sản phẩm có tác dụng tích cực .Tuy vậy,trả công theo sản phẩm cũng dễ dẫn đến hiện tượng chạy theo số lượng,coi nhẹ chất lượng,lãng phí NVL,coi nhẹ việc giữ gìn máy móc thiết bị dụng cụ và an toàn,vệ sinh lao động,tranh thủ thời gian quá mức,gây ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ NLĐ.Trả công theo sản phẩm không thích hợp với các công việc cơ khí hoá,tự động hoá cao.Vì vạy,những công việc đòi hỏi chất lượng cao hơn là về số lượng thì chỉ nên áp dụng hình thức trả lương theo thời gian hoặc trả công theo thời gian có thưởng.
Trả công theo những chế độ sau:
- Chế độ trả công theo sản phẩm trực tiếp cá nhân:
Chế độ trả công theo sản phẩm trực tiếp cá nhân là chế độ trả công sản phẩm áp dụng đối với công nhân trực tiếp sản xuất trong đó tiền công tỉ lệ thuận với số lượng sản phẩm được sản xuất ra và được nghiệm thu.
Đơn giá của chế độ trả công này cố định và được tính theo công thức sau:
ĐG = Error! Hay ĐG =L x T
Trong đó :
ĐG:đơn giá sản phẩm
L:Lương theo cấp bậc công nhân viên hoặc mức lương giờ
Q:Mức sản lượng
T:Mức thời gian (tính theo giờ)
Tiền công của công nhân được tính theo công thức
L = ĐG x Q1 Q1:sản lượng thực tế
+Ưu điểm nổi bật của chế độ tiền công này là mối quan hệ giữa tiền công của công nhân nhận dược và kết quả lao động thể hiện rõ ràng,do đó kích thích công nhân nhận được và kết quả lao động thể hiện rõ ràmg,do đó kích thích công nhân cố gắng nâng cao trình độ lành nghề,nâng cao năng uất lao động nhằm tăng thu nhập.Chế độ tiền công này dễ hiểu,công nhân dễ dàng tính toán được số tiền công nhân được.Sau khi hoàn thành nhiệm vụ sản xuất.
+ Nhược điểm của chế độ tiền công này là : NLĐ ít quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc,thiết bị và NVL,ít chăm lo đến công việc chung của tập thể v.v...
- Chế độ trả công theo sản phẩm tập thể:
Chế độ trả công tính theo sản phẩm tập thể là chế độ trả công trong đó tiền công được trả cho một nhóm NLĐ cho khối lượng công việc mà họ đã thực hiện và sau đó được phân chia đến NLĐ theo một phương pháp nhất định nào đó.
DG=∑i=1nLaxTi size 12{ ital "DG"= Sum cSub { size 8{i=1} } cSup { size 8{n} } {L rSub { size 8{a} } } ital "xT" rSub { size 8{i} } } {} Đơn giá ở đây được tính theo công thức sau:
Li:Mức lương cấp bậc của công việc i
{} ΣLci:Tổng số tiền lương tính theo cấp bậc công việc của cả tổ
Q:Mức sản lượng
Ti:Mức thời gian của công việc bậc i
Tiền công thực tế của tổ,nhóm công nhân được tính theo công thức:
Li = ĐG x Q1
Trong đó: L1:tiền công thực tế tổ nhận được
Q1:sản lượng thực tế tổ đã hoàn thành
Việc phân phối tiền công có thể áp dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thứ nhất:phương pháp hệ số điều chỉnh.
+ Bước 1: Tính tiền công theo cấp bậc và thời gian làm việc của mỗi công nhân.
Lci = Li x Ti
Trong đó: Lci:Tiền công cấp bậc của mỗi công nhân
Li: Mức lương cấp bậc công việc
Ti:thời gian làm việc thực tế của công nhân i
+ Bước 2: Xác định hệ số điều chỉnh
Hdc = Error!
Trong đó : Hdc:hệ số điều chỉnh
+Bước 3; Tính tiền công cho từng công nhân
Lli =Lci x Hdc
Trong đó : Lli:Tiền công thực tế công nhân i nhận được
- Phương pháp thứ hai:Phương pháp giờ – Hệ số
+Bước 1:Qui đổi số giờ làm việc thực tế từng công nhân ở các cấp bậc khác nhau ra số giờ làm việc của công nhân bậc 1 theo công thức:
Tqđi = Ti x Hi
Trong đó: Tqđ:Số giờ làm việc qui đổi ra bậc 1 của công nhân bậc i
Hi:Hệ số lương bậc i trong thang lương
+Bước 2:Tính tiền công cho một giờ làm việc của công nhân bậc 1
L11 = Error!
Trong đó:
L11:Tiền lương 1 giờ của công nhân bậc 1 tính theo lương thực tế
Tqđ1:Tổng số giờ bậc 1 sau khi quy đổi
+Bước 3:Tính tiền lương cho từng người
L1i = L11 x Tqđi
Hai phương pháp phân phối tiền công trên đảm bảo tính chính xác trong việc trả lương cho người lao động nhưng việc tính toán tương đối phức tạp.Do vậy trong thực tế,ngoài hai phương pháp trên,các doanh nghiệp còn áp dung chia có sự kết hợp giữa cấp bậc với việc bình công,chấm điểm hoặc phân loại A,B,C.
“Chế độ trả công theo sản phẩm tập thể có ưu điểm là khuyến khích công nhân tổ,nhóm nâng cao trách nhiệm tập thể,quan tâm đến kết quả cuối cùng của tổ.Song,nó có nhược điểm là sản lượng của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định tiền công của họ.Do đó,ít kích thích công nhân nâng cao NSLĐ cá nhân.Mặt khác do phân phối tiền công chưa tính đến tính hình thực tế của công nhân về sức khoẻ,thái độ lao động...nên chưa thể hiện đầy đủ nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động.(“Giáo trình QTNL,trang 127”)
- Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp:
Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp là chế độ trả công áp dụng cho những công nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao động của công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm.
Đặc điểm của chế độ trả công này là thu nhập về tiền công của công nhân phụ thuộc vào kết quả sản xuất của công nhân chính.Do đó,đơn giá tính theo công thức sau:
ĐG = Error!
Trong đó:
ĐG:Đơn giá tiền của công nhân phụ(phục vụ)
L:Lương cấp bậc của công nhân phụ
M:Mức lương của công nhân phụ
Q:Mức sản lượng của một công nhân chính
Tiền lương thực tế của công nhân phụ tính theo công thức:
L1 = ĐG x Q1
Trong đó : L1:Tiền lương thực tế của công nhân phụ
Q1:Mức hoàn thành thực tế của công nhân chính
Chế độ tiền công này có ưu điểm là khuyến khích công nhân phục vụ tốt hơn cho hoạt động của công nhân chính,tao điều kiện nâng cao NSLĐ của công nhân chính.Tuy nhiên,do tiền kương của công nhân phụ thuộc vào kết quả làm việc thực tế của công nhân chính,mà kết quả này nhiều khi lại chịutác động của các yếu tố khác có thể làm hạn chế sự cố gắng của coong nhân phụ.
- Chế đọ trả công khoán :
Chế độu trả công khoán áp dụng cho những công việc,nếu giao từng chi tiết,bộ phận sẽ không co lợi mà phải giao toàn bộ khối lượng cho công nhânhoàn thành trong thời gian nhất định.Chế độ này được thực hiện khá phổ biến trong ngành công nghiệp,xây dựng cơ bản hay trong một số ngành khác khi công nhân làm việc mang tính đột xuất,công việc không thể các định một định mức lao động ổn định...
Tiền công khoán được tính như sau:
L1 =ĐGk x Q1
Trong đó L1:tiền công thực tế công nhân nhân được
ĐGk:Đơn giá khoán cho một sản phẩm hay một công việc
{}Q1:Số lượng sản phẩm hay khối lượng công việcđược hoàn thành hay nghiệm thu.
Chế độ trả công khoán có tác dụng làm cho NLĐ phát huy sáng kiến và tích cực cải tiến phương pháp lao động để tối ưu hoá quá trìng làm việc,hoàn thành nhanh công việc giao khoán,đảm bảo chất lượng công việc thông qua hợp đồng khoán chặt chẽ.
Tuy nhien,chế độ trả công khoán đòi hỏi việc tính toán đơn giá hết sức chặt chẽ,tỷ mỷ để xây dựngđơn giá trả công chính xác cho công nhân làm khoán.
- Chế độ trả công theo sản phẩm có thưởng:
Chế độ trả công theo sản phẩm có thưởng là sự kết hởptả lương theo sản phẩm(theo chế độ đã trình bày ở trên)và tiền thưởng.
Chế độ trả công theo sản phẩm có thưởng gồm hai phần:Phần trả công theo đơn giá cố định và số lượng sản phẩm thực tế đã hoàn thành.Phần tiền thưởng được tính dựa vào mức độ hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về số lưoựng của chế độ tiền thưởn quy định.
Lth=L+Lhm100 size 12{L rSub { size 8{ ital "th"} } =L+L rSub { size 8{h} } { {m} over {"100"} } } {}Tiền công trả theo sản phẩm có thưởng (Lth)tính theo công thức:
Trong đó:
L :Tiền cổn trả theo sản phẩm với giá cố định
M:%tiền thưởn cho 1%hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thường
h :%hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng
Yêu cầu khi thực hiện chế độ trả công này là cần phải quy định chặt chẽ các chỉ tiêu,điều kiện thưởng,nguồn tiền thưởng và tỉ lệ thưởng bình quân.
- Chế độ trả công theo sản phẩm luỹ tiến:
Chế độ trả công rheo sản phẩm luỹ tiến áp dụng cho nhưng khâu yếu hay những khâu quan trọng của việc sản xuất mà việc tăng NSLĐ ở những khâu này có tác dụng thúc đẩy sản xuất ở những bộ phận khác có liên quan góp phần hoàn thành vượt mức kế hoạch của doang nghiệp.
Chế độ trả công này dùng hai loại đơn giá:Cố định và luỹ tiến.Đơn giá cố định dùng để trả cho những sản phẩm thực tế đã hoàn thành.Cách tính đơn giá này giống như trong chế độ trả công sản phẩm trực tiếp cá nhân.
Đơn giá luỹ tiến để tính cho những sản phẩm vượt mức khởi điểm.Đơn giá này dựa vào đơn giá cố đinh và có tính đến tỷ lệ tăng đơn giá.Tỷ lệ tăng đơn giá hợp lí được tính như sau:
K=dcdtk;d1.100 size 12{K= { {d rSub { size 8{ ital "cd"} } } over {t rSub { size 8{k} } ;d rSub { size 8{1} } } } "." "100"} {}Trong đó:
Dcđ:Tỷ trọng chi phí sản xuất gián tiếp cố định trong gá thành sản phẩm
Tk:Tỷ lệ của số tiền tiết kiệm về chi phí sản xuất gián tiếp cố định dùng để tăng đơn giá.
D1:Tỷ trọng của tiền công CNSX trong giá thành sản phẩm khi hoàn thành mức sản lượng 100%.
Tiền công của công nhân nhận được(ΣL)là
ΣL = P.Q1 + P.L.(Q1 – Q0)
Trong đó: Q1:sản lượng thực tế
Q0:mức khởi điểm
P:đơn giá cố định
- Khi áp dụng chế độ trả công theo sản phẩm luỹ tiến cần chú ý:
Đơn giá được nâng cao nhiều hay ít cho những sản phẩm vượt mức khởi điểm là do mức độ quan trọng của bộ phận sản xuất đó quyết định.
Mức khởi điểm để tính đơn giá luỹ tiến không cố định mà thay đổi phù hợp với nhiệm vụ sản xuất của doanh nghiệp.