03/06/2017, 23:22
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ....... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Quang Dũng là một nghệ sĩ có nhiều tài năng: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc. Dù ở mỗi thể loại, ông đều có những đóng góp đáng kể nhưng những người thưởng thức nghệ thuật vẫn nhớ nhất bài Tây trong tập thơ Mây đầu ô - một bài thơ vượt thời gian được viết theo cảm hứng lãng mạn chủ nghĩa ...
Quang Dũng là một nghệ sĩ có nhiều tài năng: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc. Dù ở mỗi thể loại, ông đều có những đóng góp đáng kể nhưng những người thưởng thức nghệ thuật vẫn nhớ nhất bài Tây trong tập thơ Mây đầu ô - một bài thơ vượt thời gian được viết theo cảm hứng lãng mạn chủ nghĩa với âm hưởng bi tráng. Đây là một đoạn đặc sắc trong bài Tây Tiến:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Bài thơ gồm bốn đoạn. Đoạn một gồm 14 câu và đoạn hai gồm tám câu tiếp theo dựng lên bức tranh hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Đoạn ba gồm tám câu về hình tượng người lính Tây Tiến, trong gian khổ, hi sinh vần hiên ngang và đẹp một cách hào hoa, thanh lịch. Đoạn bốn gồm bôn câu kết.
Đoạn thơ được trích trên đây thuộc đoạn một. trước khi tìm hiểu, chúng ta cần quan tâm đến hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
Khoảng cuối mùa xuân 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đây là một đơn vị thành lập năm 1947 có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Lào - Việt đồng thời đánh tiêu hao địch và tuyên truyền đồng bào kháng chiến. Địa bàn hoạt động của đoàn khá rộng từ Châu Mai, Châu Mộc sang sầm Nứa rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có nhiều học sinh, trí thức (như Quang Dũng). Sinh hoạt của họ vô cùng thiếu thốn, gian khổ, ốm đau không có thuốc men (đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều). Tuy vậy, họ sống rất vui và chiến đấu rất dũng cảm. Lòng yêu nước khiến họ có thể hi sinh tất cả (...). Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về thành lập trung đoàn 52. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị ít lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ) ông viết bài thơ Nhớ Tây Tiến.
Ở đoạn thơ trên, trước hết, chúng ta thấy hiện lên nỗi nhớ Tây Tiến: nhớ núi rừng, nhớ sông Mã khôn nguôi:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Cách dùng từ ngữ “nhớ chơi vơi” rất mới lạ, giàu sáng tạo. Thông thường ít ai nói “nhớ chơi vơi” nhưng đặt trong văn bản thơ tái hiện lại cảnh núi rừng hùng vĩ, dữ dội, gợi lại những kỉ niệm ấm áp đi không trở lại”, nỗi nhớ thương bây giờ không biết bám vào đâu, khái niệm “nhớ chơi vơi” tự nhiên có cơ sở và sức sống của nó. Vả lại, câu cảm thán và diệp từ “nhớ” có tác dụng cộng hưởng, nhấn mạnh nỗi nhớ. Lời thơ như lời gọi và khơi gợi biết bao hoài niệm của một thời đau thương nhưng anh dũng, gian khổ nhưng vĩ đại. Hơn nữa ấn tượng về miền Bắc thật mãnh liệt:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lèn khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hình ảnh thơ trở nên dị thường táo bạo: “sương lấp đoàn quân”, về trong đêm hơi”,“dốc thăm thẳm”,“súng ngửi “mưa xa “thác gầm thét”, “cọp trêu người”.
Ngoài ra, các địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu càng làm tăng cáp cái ân tượng xa ngái, hoang sơ cho độc giả. Thêm vào đó, cách phôi hợp thanh băng - trắc tạo Am hưởng lạ tai, mung lung, vừa tạo cảm giác âm u, kích thích hứng thú phiêu lưu mạo hiểm cho người thưởng thức.
- Mường Lát hoa về trong đêm hơi (6 thanh bằng)
- Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm (5 thanh trắc)
- Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi (toàn thanh băng)
Đã vậy nhà thơ gia thêm nghệ thuật đôi ngữ tương phần: “ngàn thước lên cao” ><“ngàn thước xuống” càng có sức gợi cảm giác hiểm trở rợn ngợp cả người. Đặc biệt, câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” đu mở ra một viễn cảnh lãng mạn: ngôi nhà sàn Pha Luông hiện ra phía xu mờ mờ trong mưa. Câu thơ toàn thanh bằng như trải ra, chạy dài tít tắt về phía chân trời của trí tưởng tượng. Đó là một sự khám phá nghệ thuật độc đáo và rất đẹp của Quang Dũng. Mặt khác, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh rất phù hợp:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Thi nhân không nói chết, mà nói “không bước nữa”, “gục súng mủ”, “bỏ quên dời” làm cho lời thơ bi mà không lụy, bi mà tráng, bi mà hùng, mang vẻ mĩ học sâu sắc. Đặc biệt, nghệ thuật nhân hóa tu từ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
đã làm tôn lên cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chôn rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu.
Nếu ở 12 câu trên Quang Dũng bày tỏ nỗi nhớ cảnh thì ở hai câu thơ còn lại của trích đoạn, nhà thơ bộc bạch nỗi nhớ đồng bào Tây Tiến:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Lời thơ như tiếng hát của một bài ca hoài niệm ngọt ngào, bâng khuâng, tha thiết. Hai tiếng “nhớ ôi” không những thể hiện tình cảm chung thủy mà còn nói lên nỗi nhớ cồn cào, nhớ mênh mang như một tiếng vang bật lên từ cõi nhớ. Hai tiếng “mùa em” có sức rung, sức gợi sâu xa. Dường như giữa Quang Dũng và Chế Lan Viên có mối đồng cảm:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em nấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ hương.
(Tiếng hát con tàu)
Như vậy, “nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên nhớ “thơm nếp chính là nhớ đến nghĩa tình của đồng bào Tây Bắc. Chính người dân lam lũ, vất vả, nhọc nhằn ấy đã đố’ mồ hôi, làm ra gạo, thổi cơm, thổi xôi nuôi nấng, đùm bọc, cưu mang binh đoàn Tây Tiến. Tình quân dân thật cao đẹp, thiêng liêng và thắm thiết. Thật đúng là “quân với dân như cá với nước”.
Tóm lại, đây là một trích đoạn hay nhất trong bài thơ, có sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn - một trong những đặc trưng thi pháp nổi bật của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Nhiều câu thơ còn có sự phôi hợp điêu luyện các kĩ thuật tạo hình, hội họa, điêu khắc và gần gũi với âm nhạc truyền thông. Phải là một cây bút tài hoa mới có những vần thơ giàu nghệ thuật, cô đọng, hàm súc, mềm mại, tinh tế, sôi nổi, hùng tráng đến thế. Vậy nên, bài thơ Tây của Quang Dũng xứng đáng được ngợi ca là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính thời kháng chiến chống Pháp trong kho tàng văn học hiện đại Việt Nam. Bài thơ được truyền tụng suốt hơn 50 năm qua. Chắc có lẽ, từ nay về sau, nó sẽ còn được truyền tụng mãi mãi.
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Bài thơ gồm bốn đoạn. Đoạn một gồm 14 câu và đoạn hai gồm tám câu tiếp theo dựng lên bức tranh hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Đoạn ba gồm tám câu về hình tượng người lính Tây Tiến, trong gian khổ, hi sinh vần hiên ngang và đẹp một cách hào hoa, thanh lịch. Đoạn bốn gồm bôn câu kết.
Đoạn thơ được trích trên đây thuộc đoạn một. trước khi tìm hiểu, chúng ta cần quan tâm đến hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
Khoảng cuối mùa xuân 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đây là một đơn vị thành lập năm 1947 có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Lào - Việt đồng thời đánh tiêu hao địch và tuyên truyền đồng bào kháng chiến. Địa bàn hoạt động của đoàn khá rộng từ Châu Mai, Châu Mộc sang sầm Nứa rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có nhiều học sinh, trí thức (như Quang Dũng). Sinh hoạt của họ vô cùng thiếu thốn, gian khổ, ốm đau không có thuốc men (đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều). Tuy vậy, họ sống rất vui và chiến đấu rất dũng cảm. Lòng yêu nước khiến họ có thể hi sinh tất cả (...). Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về thành lập trung đoàn 52. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị ít lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ) ông viết bài thơ Nhớ Tây Tiến.
Ở đoạn thơ trên, trước hết, chúng ta thấy hiện lên nỗi nhớ Tây Tiến: nhớ núi rừng, nhớ sông Mã khôn nguôi:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Cách dùng từ ngữ “nhớ chơi vơi” rất mới lạ, giàu sáng tạo. Thông thường ít ai nói “nhớ chơi vơi” nhưng đặt trong văn bản thơ tái hiện lại cảnh núi rừng hùng vĩ, dữ dội, gợi lại những kỉ niệm ấm áp đi không trở lại”, nỗi nhớ thương bây giờ không biết bám vào đâu, khái niệm “nhớ chơi vơi” tự nhiên có cơ sở và sức sống của nó. Vả lại, câu cảm thán và diệp từ “nhớ” có tác dụng cộng hưởng, nhấn mạnh nỗi nhớ. Lời thơ như lời gọi và khơi gợi biết bao hoài niệm của một thời đau thương nhưng anh dũng, gian khổ nhưng vĩ đại. Hơn nữa ấn tượng về miền Bắc thật mãnh liệt:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lèn khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hình ảnh thơ trở nên dị thường táo bạo: “sương lấp đoàn quân”, về trong đêm hơi”,“dốc thăm thẳm”,“súng ngửi “mưa xa “thác gầm thét”, “cọp trêu người”.
Ngoài ra, các địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu càng làm tăng cáp cái ân tượng xa ngái, hoang sơ cho độc giả. Thêm vào đó, cách phôi hợp thanh băng - trắc tạo Am hưởng lạ tai, mung lung, vừa tạo cảm giác âm u, kích thích hứng thú phiêu lưu mạo hiểm cho người thưởng thức.
- Mường Lát hoa về trong đêm hơi (6 thanh bằng)
- Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm (5 thanh trắc)
- Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi (toàn thanh băng)
Đã vậy nhà thơ gia thêm nghệ thuật đôi ngữ tương phần: “ngàn thước lên cao” ><“ngàn thước xuống” càng có sức gợi cảm giác hiểm trở rợn ngợp cả người. Đặc biệt, câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” đu mở ra một viễn cảnh lãng mạn: ngôi nhà sàn Pha Luông hiện ra phía xu mờ mờ trong mưa. Câu thơ toàn thanh bằng như trải ra, chạy dài tít tắt về phía chân trời của trí tưởng tượng. Đó là một sự khám phá nghệ thuật độc đáo và rất đẹp của Quang Dũng. Mặt khác, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh rất phù hợp:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Thi nhân không nói chết, mà nói “không bước nữa”, “gục súng mủ”, “bỏ quên dời” làm cho lời thơ bi mà không lụy, bi mà tráng, bi mà hùng, mang vẻ mĩ học sâu sắc. Đặc biệt, nghệ thuật nhân hóa tu từ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
đã làm tôn lên cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chôn rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu.
Nếu ở 12 câu trên Quang Dũng bày tỏ nỗi nhớ cảnh thì ở hai câu thơ còn lại của trích đoạn, nhà thơ bộc bạch nỗi nhớ đồng bào Tây Tiến:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Lời thơ như tiếng hát của một bài ca hoài niệm ngọt ngào, bâng khuâng, tha thiết. Hai tiếng “nhớ ôi” không những thể hiện tình cảm chung thủy mà còn nói lên nỗi nhớ cồn cào, nhớ mênh mang như một tiếng vang bật lên từ cõi nhớ. Hai tiếng “mùa em” có sức rung, sức gợi sâu xa. Dường như giữa Quang Dũng và Chế Lan Viên có mối đồng cảm:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em nấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ hương.
(Tiếng hát con tàu)
Như vậy, “nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên nhớ “thơm nếp chính là nhớ đến nghĩa tình của đồng bào Tây Bắc. Chính người dân lam lũ, vất vả, nhọc nhằn ấy đã đố’ mồ hôi, làm ra gạo, thổi cơm, thổi xôi nuôi nấng, đùm bọc, cưu mang binh đoàn Tây Tiến. Tình quân dân thật cao đẹp, thiêng liêng và thắm thiết. Thật đúng là “quân với dân như cá với nước”.
Tóm lại, đây là một trích đoạn hay nhất trong bài thơ, có sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn - một trong những đặc trưng thi pháp nổi bật của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Nhiều câu thơ còn có sự phôi hợp điêu luyện các kĩ thuật tạo hình, hội họa, điêu khắc và gần gũi với âm nhạc truyền thông. Phải là một cây bút tài hoa mới có những vần thơ giàu nghệ thuật, cô đọng, hàm súc, mềm mại, tinh tế, sôi nổi, hùng tráng đến thế. Vậy nên, bài thơ Tây của Quang Dũng xứng đáng được ngợi ca là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính thời kháng chiến chống Pháp trong kho tàng văn học hiện đại Việt Nam. Bài thơ được truyền tụng suốt hơn 50 năm qua. Chắc có lẽ, từ nay về sau, nó sẽ còn được truyền tụng mãi mãi.