Bài văn phân tích tác phẩm "Thái sư Trần Thủ Độ" số 6 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Thái sư Trần Thủ Độ" của Ngô Sĩ Liên
Có thể nói Đại Việt sử ký toàn thư là bộ sách chính sử cổ nhất, được viết bằng văn phong Việt Nam, còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày hôm nay, là di sản vô cùng quý giá của dân tộc nói chung và ngành sử học nói riêng. Mà theo như Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn nhận xét: "Đối với thời kỳ ...
Có thể nói Đại Việt sử ký toàn thư là bộ sách chính sử cổ nhất, được viết bằng văn phong Việt Nam, còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày hôm nay, là di sản vô cùng quý giá của dân tộc nói chung và ngành sử học nói riêng. Mà theo như Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn nhận xét: "Đối với thời kỳ lừng danh như thời Đại Việt, nó là cả một bản anh hùng ca, cái gì có liên quan đến nó, dẫu là một câu, một dòng chữ tự tay nhân vật đã sống hoặc đã chứng kiến những giờ phút huy hoàng viết ra, mà ta được đọc hay được nghe, đều là tiếng nói thân thiết từ ngàn xưa vọng lại, làm rung động tâm hồn của chúng ta biết bao." Chúng ta có thể lấy ví dụ đoạn trích Thái sư Trần Thủ Độ để minh chứng cho điều ấy.
Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn, nhưng bằng ngòi bút tài hoa của sử quan Ngô Sĩ Liên hình ảnh của Thái sư Trần Thủ độ đã được lột tả một cách chân thực, thông qua những mẩu chuyện nhỏ. Tất cả tài năng, đức độ của ngài đều được nhìn nhận một cách khách quan nhất. Trần Thủ Độ là người tuy không có học vấn uyên thâm, nhưng lại có tài lược hơn người, khi còn làm quan dưới triều Lý được rất nhiều người nể phục. Đỉnh cao của sự tài lược ấy đã được lịch sử ghi lại một cách ấn tượng khi ông đã giúp nhà Trần giành được ngôi vua mà không phải đổ một giọt máu nào. Ông cho cháu của mình là Trần Cảnh cưới công chúa Lý Chiêu Hoàng (vị vua cuối cùng của triều Lý), rồi ép nàng nhường ngôi cho chồng, từ ấy nhà Trần thành lập và vững bền tận gần 200 năm. Đây phải nói là cuộc thay đổi triều đại yên bình nhất từ trước tới nay, tất cả cũng nhờ tầm nhìn xa trông rộng và lòng nhân nghĩa, đức độ của Trần Thủ Độ.
Vua Thái Tông, lúc mới lên ngôi chỉ mới 10 tuổi, chưa nắm rõ chính sự chỉ đành nhờ cậy cha là Thái thượng hoàng Trần Thừa và Thái sư Trần Thủ Độ cáng đáng việc nước. Vì quyền thế quá lớn, nên trong triều thường có người e sợ Trần Thủ Độ có ý đồ bất chính, nên đã khóc lóc, tâu với nhà vua. Nhưng thật hay cho đấng anh hùng có khí khái hiên ngang của thời đại, khi vua hỏi thực hư chuyện chuyên quyền nhiếp chính, Trần Thủ Độ đã không ngần ngại thừa nhận, lại còn cho thưởng vàng bạc, châu báu cho kẻ dám nói thật, ấy là đáng khen vô cùng. Bởi vốn dĩ chuyện có thật thì chẳng việc gì phải che đậy, vua còn nhỏ tuổi, nếu không có người đứng ra nguyện gánh vác thì há phải bao công sức mưu đồ nay thành bóng nước? Trần Thủ Độ sống là người ngay thẳng chính trực, có đạo đức, lại là công thần khai quốc bậc nhất, cũng chẳng phải sợ những lời gièm pha, bởi trong thâm tâm ngài luôn mong muốn xây dựng một triều đại thái bình, thịnh trị, nay triều đình còn non yếu, không phải là lúc bận tâm đến việc ai hơn ai, mà việc cần nhất là quân thần đồng lòng, Trần Thủ Độ hy vọng nhà vua sẽ hiểu điều đó.
Lại có chuyện vợ ông là Linh Từ Quốc Mẫu, lúc ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn lại, bà này về giận dỗi trách hờn bản thân bị khinh nhờn, lúc đầu Trần Thủ Độ nghe xong cũng lấy làm bực dọc, nhưng sau khi tra hỏi rõ ràng, phát hiện người quân hiệu nọ chỉ làm đúng quy định thì thả và còn thưởng cho vàng lụa. Điều ấy chứng tỏ Thái sư là người chí công vô tư, tôn trọng luật pháp, quốc có quốc pháp gia có gia quy, một điều cũng không thể trái, cho dù ông đã là người dưới một người trên vạn người thì nguyên tắc ấy không bao giờ có thể thay đổi, không vì chút tình riêng mà làm ảnh hưởng đến bộ mặt đất nước, triều đình.
Thêm một chuyện nữa liên quan đến vợ ông, bà có ý xin cho người họ hàng làm chức câu đương, quả thực việc này chẳng có gì khó khăn. Nhưng với tấm lòng chí công vô tư, người vô công thì không thụ lộc, không phải hiền tài thì ông không dễ cất nhắc. Ông vừa không muốn làm vợ buông lòng, chuyện nhà lục đục, vừa muốn giữ trọn nguyên tắc, nên đã nghĩ ra một cách rất thông minh, ấy là đòi chặt bỏ 1 ngón chân để phân biệt giữa vị họ hàng xa của vợ và những người khác, người thấy thế tự biết sợ mà rút lui. Thế là chuyện được giải quyết một cách khéo léo, vừa răn đe kẻ khác, vừa khiến vợ không thể oán trách gì, bởi việc ông làm đâu có chỗ nào vô lý. Người nam nhi phải tề gia trị quốc bình thiên hạ là như thế.
Vì có nhiều công lao, đức độ nên Trần Thủ Độ rất được tin dùng, nhà vua ưu ái muốn cho anh trai của ông là An Đức cùng vào triều làm tướng, nhưng Trần Thủ Độ không lấy thế làm vui mừng bởi ông thưa rằng: "An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều sẽ như thế nào?". Trần Thủ Độ là người kiên định, chí công vô tư, lại có tài mưu lược, nên trong chuyện tuyển chọn hiền tài hẳn là rất khắt khe, việc nhà vua chỉ vì mối quan hệ thân tình mà cho anh trai mình làm tướng, điều ấy là không nên, bởi chỉ người hiền tài mới có thể đứng ra gánh vác trọng trách, huống chi lại còn làm đến chức tướng.
Nếu chuyện thăng quan tiến chức dễ vậy thì còn gì là kỷ cương phép nước, liệu sẽ có thêm bao nhiêu kẻ theo lệ này mà làm càn? Với lại luật Hồi tỵ (luật quy định, những người thân như anh em, cha con, thầy trò, bạn bè cùng học, những người cùng quê... thì không được làm quan cùng một chỗ) vẫn còn đấy, sao có thể để anh em cùng làm quan chung một chỗ, sẽ gây ra hiềm nghi, thân là bậc công thần lại càng không được làm trái, phải là tấm gương sáng cho bề tôi thấy mà nể sợ.
Đọc đoạn trích Thái sư Trần Thủ Độ, ta mới hiểu sâu sắc được thế nào là một vị khai quốc công thần, nhà chính trị kiệt xuất, bản lĩnh. Ở ông hiện lên những vẻ đẹp của trí tuệ cùng đạo đức, tấm lòng cương trực, thẳng thắn, liêm khiết, luôn lấy việc của xã tắc, của quốc gia làm trọng, đặt lên trên tất cả những việc cá nhân, gia đình. Ấy là bản lĩnh của bậc đại trượng phu mà không phải ai cũng có được.