Bài văn phân tích tác phẩm "Khuê oán" số 9 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Khuê oán" của Vương Xương Linh hay nhất
Tôi chưa đọc nhiều thơ Đường cũng như chưa thực sự có một vốn kiến thức sâu rộng về Đường thi. Tuy vậy nhưng trong số ít ỏi nhưng bài thơ Đường tôi đã được đọc và cảm nhận, tôi đặc biệt thích bài “Khuê oán” của Vương Xương Linh - một thi phẩm thực sự làm tôi ngưỡng mộ. Bài thơ gồm ...
Tôi chưa đọc nhiều thơ Đường cũng như chưa thực sự có một vốn kiến thức sâu rộng về Đường thi. Tuy vậy nhưng trong số ít ỏi nhưng bài thơ Đường tôi đã được đọc và cảm nhận, tôi đặc biệt thích bài “Khuê oán” của Vương Xương Linh - một thi phẩm thực sự làm tôi ngưỡng mộ. Bài thơ gồm bốn câu thơ như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
Dịch nghĩa:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết buồn
Ngày xuân, trang điểm rồi trèo lên lầu đẹp
Chợt nhìn thấy sắc xuân cây dương liễu ở bên đường
Bỗng hối hận đã xui chồng tòng quân kiếm ấn phong hầu
Dịch thơ:
(Dịch thơ của Ngô Tất Tố)
Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.
Nội dung chính của bài thơ nói về nỗi oán hận của người con gái nơi phòng khuê, thể hiện ngay ở nhan đề - “khuê oán”. Tại sao lại có nỗi oán hận ấy thì ta có thể tìm hiểu cụ thể qua bốn câu thơ. Hai câu thơ đầu:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu
dịch là:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết buồn
Ngày xuân, trang điểm rồi trèo lên lầu đẹp
“thiếu phụ” - tức là người phụ nữ đã có chồng nhưng còn trẻ.Có thể thấy ở đây người thiếu phụ không biết buồn - vẫn rất hồn nhiên vui vẻ. Thể hiện sinh động ở hành động trang điểm “ngưng trang” trong “xuân nhật”(ngày xuân). Có nhiều ý kiến khác nhau về cách dịch từ “ngưng” , nhưng dịch là đẹp, lộng lẫy đi liền với động từ “trang” là trang điểm lộng lẫy, đẹp thì xem ra hợp nghĩa hơn cả, và có ý nghĩa hơn cả trong việc thể hiện nỗi oán ở hai câu sau. Cũng phải nói thêm về hành động “thướng thúy lâu” tức trèo lên lầu đẹp. Một hành động cũng góp phần nói lên sự hồn nhiên, vô tư của người thiếu phụ trẻ khi lên lầu ngắm cảnh đẹp ngày xuân.
Tóm lại hai câu thơ đầu là bức tranh đầy hài hòa giữa không gian mùa xuân tươi mát, vẻ đẹp lộng lẫy của thiếu phụ trẻ với cái hồn nhiên vô tư của tâm hồn nàng. Hai câu thơ sau là sự chuyển đổi cảm xúc một cách kì diệu:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
dịch là:
Chợt nhìn thấy sắc xuân cây dương liễu ở bên đường
Bỗng hối hận đã xui chồng tòng quân kiếm ấn phong hầu
Từ “hốt” là đánh dấu sự biến đổi hoàn toàn trong cấu tứ bài thơ. Nó tạo nên sự chuyển đổi đầy tinh vi trong cảm xúc. Ở đây ta chú ý đến hình ảnh “cây dương liễu” - một hình ảnh ước lệ trông thơ ca truyền thống. “Liễu”tượng trưng cho sự chia lìa, li biệt, khi hai người chia xa họ thường bẻ cành liễu trao tay nhau.
Vậy là đã rõ. Người thiếu phụ trẻ bất chợt nhìn thấy sắc dương liễu -một hình ảnh đầy vô tình trong cái sự trang điểm lộng lấy, ngắm cảnh xuân của một trái tim vốn vô tư. Không nói ra nhưng người đọc cũng tự cảm thấy nỗi sầu oán, xót xa đang từng giây ngập đầy trái tim người phụ nữ trẻ.
Lẽ thường: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai”. Nhưng người thiếu phụ trẻ ở đây điểm trang rất lộng lấy, càng lộng lẫy càng đẹp thì càng làm nỗi xót xa, cay đắng tâng lên gấp bội. Bởi lẽ đẹp lắm cũng để làm gì đâu, có ai nhìn ai ngắm, ai yêu. Và càng đau xót khi nhận thấy nếu như chàng mãi không về thì thì cái tuổi trẻ, sắc đẹp của nàng sẽ phôi phai. Nàng đang đứng trong mùa xuân nên hơn ai hết nàng hiểu rõ cái sự tuần hoàn ấy của đất trời.
Nàng thực sự hối hận:
Hối giao phu tế mịch phong hầu
Ngày xưa người phụ nữ xem việc chồng đi chinh chiến tìm kiếm công danh là lẽ thường tình. Nhưng người phụ nữ trẻ này thì khác, nàng nhận ra cái vô nghĩa của con đường tìm kiếm công danh ấy. Trong hàng triệu người ra đi thì có bao người đem được danh tước trở về, hay đa số mất xác nơi cồn cỏ, hoang mạc gió bụi trong những cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi phi nghĩa. Để lại nỗi nhọc nhằn cô đơn mỏi mòn cho những người thân nơi làng quê từng giây mong ngóng. Nàng ý thức rõ chiến tranh là nguyên nhân gieo đau khổ, chết chóc và giết chết tuổi xuân của nàng trong thầm lặng.
Bài thơ với thể thất ngôn tứ tuyệt hàm xúc, nhà thơ đã làm được những điều kì diệu trong cấu tứ, trong thể hiện cảm xúc tinh vi khéo léo bằng nghệ thuật tương phản. Thực sự đã rất thành công để nói lên nỗi sầu oán của người thiếu phụ, đồng thời phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa gieo đau thương cho dân chúng. Quả là một thi phẩm danh bất hư truyền.