Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 7 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải hay nhất
Bài thơ Hai chữ nước nhà là những cảm xúc chân thành, mãnh liệt, vừa gợi tả tâm trạng khắc khoải, đau thương của nhân vật lịch sử, vừa bộc lộ cảm xúc, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào.Mở đầu bài thơ, tác giả thuật dựng lại hoàn cảnh mà hai cha con chia li, đó là ở ...
Bài thơ Hai chữ nước nhà là những cảm xúc chân thành, mãnh liệt, vừa gợi tả tâm trạng khắc khoải, đau thương của nhân vật lịch sử, vừa bộc lộ cảm xúc, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào.Mở đầu bài thơ, tác giả thuật dựng lại hoàn cảnh mà hai cha con chia li, đó là ở biên giới hoang vu của tổ quốc:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Không thể biết đây là cảnh buồn hay chính là người đang buồn. Nguyễn Phi Khanh bị đưa sang Tàu, đây là chuyến đi mà ông hiểu rằng sẽ là một đi không trở lại, có lẽ đây là lần cuối cùng mà ông có thể đứng trên mảnh đất quê hương mình mà nói chuyện với con trai. Chính vì vậy mà:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
“Hạt máu nóng” ở đây phải chăng là giọt nước mắt đau đớn như giọt máu rỉ ra từ lòng của một người cha. Hình ảnh “thân tàn lần bước dặm khơi” cho người đọc ấn tượng về dáng đi tiêu điều, xơ xác đau thương của người cha già đang đứt từng khúc ruột vì quê hương. Người cha ấy trong cơn đau đớn, chỉ còn biết khuyên bảo con những lời sau cuối:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Người cha ấy trong lòng còn ôm bao nhiêu là nỗi canh cánh không thể nào dứt ra được, trong lòng ông còn đang đớn đau muôn phần bởi:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Tất cả những điều mà Nguyễn Phi Khanh còn đau đáu lúc ra đi chỉ có về nòi giống, cơ đồ dân tộc, ông đau đớn xiết bao trước cảnh nhân dân lầm than, bị chà đạp, chịu khổ đau, xót xa biết nhường nào khi thấy cơ đồ cố quốc sụp đổ, điêu tàn. Và có lẽ không chỉ có nỗi đau nơi con người, lòng thù hận nhuốm lên cả thiên nhiên cảnh vật:
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Câu hỏi tu từ gói gọn hết tất cả những trăn trở của ông về nước nhà, ông lo lắng cho vận mệnh quốc gia, dân tộc, lo lắng cho cả thế hệ sau và cả cho lịch sử nòi giống. Nhưng hoàn cảnh của ông lúc này chỉ có thể:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Vì đem hết cơ ngơi mong muốn đặt lên vai con nên người cha ấy mong đợi ở con rất nhiều, ông muốn răn con những điều hay lẽ phải trong giây phút chia li này để hướng con đến lí tưởng mục đích tốt đẹp:
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Ðã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây
Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong
Giết giặc nước, trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến
Vì giống nòi quyết chiến bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
Gươm reo chính khí nước rền dư uy
Coi lịch sử gươm kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Nguyễn Phi Khanh đưa ra lịch sử nước nhà nhắc con đến mối thù xâm lăng, đến những tướng lính đã ghi danh sử sách cốt để nhắc nhở trách nhiệm của con đối với giang sơn xã tắc:
Con nay cũng một người trong nước
Phải nhắc câu Gia, Quốc đôi đường
Làm trai hồ thỉ bốn phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa xá kể làm chi!
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hy sinh thân thế cũng vì nước non
Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ
Bước cạnh tranh há dễ nhường ai?
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng tham phú quí mà nguôi tấc lòng
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục;
Thân tự do chiên chúc mà vinh
Con ơi nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời
Chớ lần lữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai
Đem thân đầy đọa tôi đòi
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế, sống đê, sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông!
Thà rằng chết quách cho xong
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết
Làm giống người phải xét nông sâu
Tuồng chi gục mặt cúi đầu
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời
Con ơi! con phải là người
Thì con theo lấy những lời cha khuyên
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
Chân mây mặt cỏ rầu rầu
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Lời cha dặn khắc xương để dạ
Mấy gian lao con chớ sai nguyền
Tuốt gươm thề với vương thiên
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu
Gan tráng sĩ vững sau như trước
Chí nam nhi lấy nước làm nhà
Tấm thân xẻ với san hà
Tượng đồng bia đá họa là cam công
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch
Mũi long tuyền lau sạch màu tanh
Làm cho đất rộng trời kinh
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Những điều mà ông khuyên con vô cùng sâu sắc, chân quý, đó đều là những đạo lí để nên người: yêu nước, thương nòi, không tham vinh hoa, biết căm thù số kiếp nô lệ, nuôi chí lớn thống nhất non sông. Đó có lẽ là tất cả những điều ông mong ở người con trai của mình:
Nghĩa vụ đó con hay chăng tá?
Tính toán sao vẹn cả đôi đường
Cha dù đất lạ gởi xương
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già
Con ơi! Hai chữ nước nhà!
Thời khắc chia li cuối cùng đã đến, sau tất cả, khi hình ảnh hai cha con đã mờ vào dặm xa, vẫn còn vẳng nghe “hai chữ nước nhà”. Bốn chữ đơn thuần mà gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Đọc "Hai chữ nước nhà" ta cảm động biết bao trước tình cảnh của hai cha con cùng lí tưởng, tình cảm cao đẹp của những con người lịch sử đáng khâm phục.