Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải số 6 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải hay nhất
Lấy cảm hứng từ việc ông nghĩ tớ lời ông Nguyễn Phi Khanh dặn ông Nguyên Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu, Á Nam Trần Tuấn Khải đã sáng tác bài thơ “Hai chữ nước nhà”. Bài thơ đã mượn câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm để bộc lộ cảm xúc, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu ...
Lấy cảm hứng từ việc ông nghĩ tớ lời ông Nguyễn Phi Khanh dặn ông Nguyên Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu, Á Nam Trần Tuấn Khải đã sáng tác bài thơ “Hai chữ nước nhà”. Bài thơ đã mượn câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm để bộc lộ cảm xúc, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào.
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Thiên nhiên được miêu tả thật u sầu, ảm đạm ở một nơi là chốn ải Bắc, một nơi là cõi trời Nam. Đó là một khung cảnh thiên nhiên hết sức hoang vu, vắng vẻ thậm chí ẩn tàng cả hiểm nguy và là phông nền cho cuộc chia li của hai cha con Nguyễn Phi Khanh:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
“Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước” có lẽ là ẩn dụ cho tình yêu nước hay là tình cha con trong cảm xúc về tình yêu nước trong lời người cha khuyên con:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Với giọng hào sảng xen lẫn xót xa, trong lời mà ông khuyên con trai là nỗi căm thù với quân giặc đã biến tổ quốc, quê hương thành biển lửa:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Hình ảnh hiện lên rõ ràng về tội ác chất chồng của quân giặc, quân Minh tới gây cho nhân dân biết bao thương đau, làm cho một chốn giang san tan tác tiêu điều khiến cho những bậc trung thần nghĩa sĩ phải đau lòng mà thốt lên:
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Trong nỗi thương giống nòi vô hạn, Nguyễn Phi Khanh để lại cho con một mối lo lắng đó là “Lấy ai tế độ đàn sau”, câu hỏi tu từ thiết tha nặng trĩu niềm đau đớn trích từ máu xương của người cha, ông lo cho thế hệ sau, còn đâu giống nòi, còn đâu xã tắc? Ông trải hết tấm lòng này với con đó là vì ông biết mình lần đi này một đi không trở lại, giờ phút chia tay cuối cùng ở chốn biên ải này, ông muốn gửi gắm sự nghiệp, lí tưởng cả đời cho con, muốn con hoàn thành chí lớn của mình:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Ông nhắc cho con nhớ về tổ tiên, về truyền thống dân tộc, về những chiến công của những anh hùng trong lịch sử để khuyên con hãy vì dân, vì nước mà hiểu bản thân cần làm gì:
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Ðã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây
Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong
Giết giặc nước, trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến
Vì giống nòi quyết chiến bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
Gươm reo chính khí nước rền dư uy
Coi lịch sử gươm kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Con nay cũng một người trong nước
Phải nhắc câu Gia, Quốc đôi đường
Làm trai hồ thỉ bốn phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa xá kể làm chi!
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hy sinh thân thế cũng vì nước non
Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ
Bước cạnh tranh há dễ nhường ai?
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng tham phú quí mà nguôi tấc lòng
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục;
Thân tự do chiên chúc mà vinh
Con ơi nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời
Chớ lần lữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai
Đem thân đầy đoạ tôi đòi
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế, sống đê, sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông!
Thà rằng chết quách cho xong
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết
Làm giống người phải xét nông sâu
Tuồng chi gục mặt cúi đầu
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời
Con ơi! con phải là người
Thì con theo lấy những lời cha khuyên
Nguyễn Phi Khanh giống như muốn dặn con những lời gan ruột cuối cùng, ông dặn con yêu nước thương nòi, sống có nhân có đức, không tham vinh hoa phú quý, đặc biệt phải biết căm phẫn cái thân nô lệ mà làm sao cho không hổ thẹn với đời. Dặn con xong những lời ấy, cũng là lúc ông phải đi, xa quê hương tổ quốc mãi mãi:
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
Chân mây mặt cỏ rầu rầu
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Chốn biên ải đã hoang vu, nỗi sầu muộn của hai cha con lại càng làm cho nó trở nên buồn thảm hơn bao giờ hết và chân bước đi, đầu vẫn muốn ngoảnh lại mói với con những lời sau cuối, muốn con khắc sâu những lời dặn dò ấy của mình để nuôi chí đánh đuổi xâm lăng, lấy lại tự do độc lập cho giang sơn:
Lời cha dặn khắc xương để dạ
Mấy gian lao con chớ sai nguyền
Tuốt gươm thề với vương thiên
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu
Gan tráng sĩ vững sau như trước
Chí nam nhi lấy nước làm nhà
Tấm thân xẻ với san hà
Tượng đồng bia đá hoạ là cam công
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch
Mũi long tuyền lau sạch màu tanh
Làm cho đất rộng trời kinh
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Nghĩa vụ đó con hay chăng tá?
Tính toán sao vẹn cả đôi đường
Cha dù đất lạ gởi xương
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già
Con ơi! Hai chữ nước nhà!
Đó chính là “nghĩa vụ” của một con người ở đời, nghĩ vụ với “hai chữ nước nhà”. Câu thơ cuối như nghĩa lời vang vọng cuối cùng của một tấm lòng yêu nước thiết tha nồng đượm mà sao nghe xót xa, đau nhói, gây ấn tượng mãi cho trái tim bạn đọc. Đọc "Hai chữ nước nhà" có cảm nhận như trong lòng ta trào dâng một tình yêu nước đang ngủ yên trong sâu thẳm trái tim.