Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong "Rừng xà nu" số 7 - 10 Bài văn phân tích nhân vật cụ Mết trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành
“Lớp cha trước, lớp con sau Đã thành đồng chí nên câu quân hành”(Tố Hữu) Hai câu thơ trên nhắc tôi nhớ về tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình tượng tập thể người dân làng Xô Man truyền dạy, lưu giữ và tiếp ...
“Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí nên câu quân hành”(Tố Hữu)
Hai câu thơ trên nhắc tôi nhớ về tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình tượng tập thể người dân làng Xô Man truyền dạy, lưu giữ và tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác tinh thần dân tộc và phẩm chất con người. Trong đó, thế hệ đầu tiên – lớp người đau thương nhất và ý thức sâu sắc nhất về con đường cách mạng với đại diện là cụ Mết để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc.
Nguyễn Trung Thành là cây bút thuộc về đất và người Tây Nguyên. Tuy quê đất Quảng, nhưng hình ảnh đất và người Tây Nguyên trong trang văn Nguyễn Trung Thành chân thực, sống động và lấp lánh bản sắc anh hùng. Truyện ngắn “Rừng xà nu” cũng tương tự như một cuốn sử thi.
Tuy nhiên, ở đó không tập trung làm bật lên hình tượng tù trưởng như Đăm Săn, Xinh Nhã mà là hình tượng tập thể các thế hệ làng Xô Man anh hùng. Thế hệ đầu tiên, người còn lại gần như là duy nhất – cụ Mết. Do vậy khi khắc họa hình tượng nhóm thế hệ đời đầu, Nguyễn Trung Thành tập trung vào khắc họa nhân vật cụ Mết.
Nhắc lại về vị trí nhân vật, cụ Mết là nhân vật tiêu biểu cho lớp già làng dân làng Xô Man, tựa cây xà nu đại thụ. Cụ Mết như chứng nhân lịch sử, là pho tàng kinh nghiệm sống, là bộ biên niên sử của một thời “đất nước đứng lên”. Hơn ai hết, các thế hệ sau coi cụ Mết như cây cột vững chắc để nương tựa tinh thần và niềm tin vào cách mạng. Cụ Mết dạy con cháu lẽ phải, điều đúng. Lời cụ Mết như lời sấm truyền chân chính thay phát ngôn về tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành.
Về ngoại hình, cụ Mết có vẻ đẹp ấn tượng. Dáng hình cụ Mết tương ứng với một cây xà nu đại thụ: “ngực căng như một cây xà nu lớn”, râu “đã dài tới ngực và vẫn đen bóng”, “bàn tay chắc nịch nặng như kìm sắt và sần sùi như vỏ cây”, “mắt sáng và xếch ngược”, “vết sẹo láng bóng”… Đặc biệt, cụ Mết có “giọng nói ồ ồ dội vang trong lồng ngực” tựa âm hưởng núi rừng đại ngàn, kết tinh mọi trầm tích văn hóa.
Về tính cách, cụ Mết là người tuyệt đối trung thành với cách mạng. “Đảng còn thì núi nước này còn”. Cụ Mết yêu dân làng hết mực, tin yêu vào thế hệ con cháu. Cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch ấy lên vai Tnú vừa động viên vừa đặt niềm tin trọn vẹn. Cụ Mết thực hiện đúng nghĩa vụ truyền lại cho con cháu truyền thống và phẩm chất con người Tây Nguyên. Nhân vật đã lấy chính bản thân và hình ảnh thế hệ cha anh còn sống như Tnú để giáo dục con cháu.
“Nhớ lấy… ghi lấy…”, “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “gạo người Strá mình làm ra ngon nhất vùng”… những lời cụ Mết là tâm huyết của cả thế hệ. Cùng với việc truyền đạt truyền thống, phẩm chất, cụ Mết còn đúc kết triết lí sống và chân lí cách mạng nhắc nhở thế hệ trẻ: “Đánh thằng Mỹ phải đánh dài”, “Chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo”…
Tóm lại, nhân vật cụ Mết là hội tụ khí thiêng sông núi, in đậm dấu vết siêu phàm của ông già trong truyện thần thoại nhưng cũng vô cùng gần gũi, thân thương. Nguyễn Trung Thành đã sử dụng hệ thống ngôn từ linh hoạt, giàu sức biểu cảm cùng nghệ thuật xây dựng không gian đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn để phục dựng chân dung một cụ Mết thần thoại. Truyện ngắn “Rừng xà nu” đã khẳng định tài năng và vị trí Nguyễn Trung Thành trong nền văn học kháng chiến 1945-1975 bên cạnh nhiều cái tên khác như Nguyễn Thi, Nguyễn Khải hay Nguyễn Minh Châu.
Trong thời đại chống Mĩ, chủ nghĩa yêu nước là nội dung xuyên suốt trong văn học Việt Nam. Nó bùng cháy mạnh mẽ và phát triển lên một bước mới thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bởi vậy, trong các tác phẩm không chỉ xuất hiện của những cá nhân anh hùng, xuất chúng mà còn xuất hiện cả tập thể anh hùng. Trong tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành bên cạnh nhân vật Tnú còn nổi bật lên tập thể anh hùng làng Xô Man, trong đó nổi bật hơn cả là nhân vật cụ Mết.
Với nhân dân làng Xô Man, cụ Mết chính là già làng, người cao tuổi nhất đồng thời là người đại diện cho nguyện vọng của cộng đồng, là người kết tinh sức mạnh, ý chí của cộng đồng. Đồng thời cụ Mết cũng chính là người trực tiếp kể cho dân làng Xô Man về Tnú. Là một người già làng, có tiếng nói đầy quyền uy khiến cho những chi tiết liên quan đến cuộc đời Tnú trở nên chân thực, khách quan. Hơn nữa lối kể và giọng điệu mang đậm chất sử thi của cụ, khiến cho câu chuyện về người anh hùng Tnú càng trở nên lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Cụ Mết chính là con người thuộc thời đại “Đất nước đứng lên”, cụ đã trải qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ để tiếp tục cùng con cháu và thế hệ trẻ vùng lên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng. Cụ vừa là biểu tượng cho quá khứ vẻ vang, rực rỡ, vừa là người giữ và truyền lửa cho thế hệ sau.
Dù đã cao tuổi những cụ Mết vẫn giữ được vẻ quắc thước như xưa, cụ vẫn là cây xà nu lớn của buôn làng, bàn tay cụ trắc nịch, khỏe khoắn,… Dù chỉ là một vài chi tiết, nhưng tác giả đã cho thấy, dù cụ Mết đã già nhưng vẫn có thể lực vô cùng dẻo dai, cường tráng, diện mạo của cụ dường như vượt qua được sức tàn phá mạnh mẽ của thời gian; diện mạo này cũng phần nào chứng tỏ vai trò trụ cột, chống đỡ như cây xà nu lớn của cụ Mết với dân làng Xô Man.
Ẩn đằng sau vẻ đẹp khỏe khoắn, dẻo dai là vẻ đẹp phẩm chất ngời sáng của cụ. Trước hết cụ là người có tình yêu Đảng, yêu cách mạng sâu sắc, điều này được thể hiện trong cả cuộc đời đấu tranh bền bỉ, kiên cường của cụ Mết, mà chứng tích để lại chính là vết sẹo hằn in trên má.
Cụ Mết đã một lòng theo Đảng, cách mạng để đi từ kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ trong vai trò trụ cột, chỉ huy, lãnh đạo dân làng Xô Man. Tình yêu với Đảng, cách mạng còn được thể hiện qua những lời nói giản dị mà đầy ý nghĩa: “Đảng còn. Núi nước này còn”. Không khoa trương ồn ào, nhưng bằng chính lối tư duy mộc mạc, ngôn ngữ tự nhiên, đã thể hiện tình yêu Đảng sâu sắc của cụ, đồng thời khơi dậy tình yêu đó trong lòng mỗi người dân làng Xô Man.
Không chỉ vậy cụ còn là người có kinh nghiệm sống, bản lĩnh và từng trải. Chính những điều đấy khiến cho cụ luôn đưa ra những quyết định đứng đắn, sáng suốt trong những thời điểm quan trọng nhất. Cụ cũng là người đã nhận ra: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, cũng chính cụ đã vượt qua được sự nôn nóng của Tnú để quay vào rừng, sau đó cùng thanh niên, trai tráng quay trở lại cứu Tnú. Kinh nghiệm bản lĩnh sống của cụ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của dân làng Xô Man.
Cụ cũng là người luôn tìm cách giữ lửa, truyền lửa và động viên thế hệ mai sau tiếp bước con đường của thế hệ cha anh. Và vai trò quan trọng nhất của cụ Mết cũng là phẩm chất nổi bật nhất chính là việc cụ đưa ra những đúc kết và thay tác giả phát ngôn cho những chân lí của thời đại, cộng đồng. Từng lời chậm chãi, nhưng dõng dạc, chắc nịch: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, thể hiện sự nhạy bén của cụ trước sự đổi thay của thời đại.
Bởi chỉ với bàn tay không Tnú đã không cứu được vợ con, bản thân cũng bị giặc hành hạ tàn bạo; bởi chỉ có bàn tay không nên rất nhiều người dân đã ngã xuống. Cụ đã nhận thức được rằng, thời đại đã thay đổi, quân xâm lược ngày càng sử dụng những vũ khí tối tân với cách đánh tinh vi hơn, bởi vậy chỉ với bàn tay không thì ta chắc chắn sẽ thất bại.
Câu nói của cụ đã đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phải chuyển từ đấu tranh tự phát, sang đấu tranh tự giác, đấu tranh vũ trang với sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu đáo. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng với cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên mà nó còn là chân lí của thời đại, kết tinh từ trí tuệ của cộng đồng. Cụ Mết đã thay tác giả phát ngôn chân lí đó. Bằng sự trải nghiệm và kinh nghiệm sống dày dặn, cụ làm cho nhận thức đó trở nên sâu sắc và có giá trị hơn.
Với dân làng Xô Man, cụ Mết chính là linh hồn, chỗ dựa vững chắc cả về sức mạnh lẫn tư tưởng, nhận thức. Cụ vừa là hiện thân của quá khứ hào hùng để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ sau, vừa là một người dìu dắt, giúp đỡ, thúc đẩy lịch sử đấu tranh của làng Xô Man và nhân dân Tây Nguyễn mỗi lúc một hào hùng hơn.