Bài văn phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du số 8 - 10 Bài văn phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du hay nhất
Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, người ta không thể nào quên được tác phẩm Truyện Kiều - kiệt tác của nền văn học trung đại Việt Nam nói chung và của tác giả nói riêng. Tác phẩm được viết lên bằng ngòi bút tài hoa, bút pháp ước lệ cùng cảm hứng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ. ...
Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, người ta không thể nào quên được tác phẩm Truyện Kiều - kiệt tác của nền văn học trung đại Việt Nam nói chung và của tác giả nói riêng. Tác phẩm được viết lên bằng ngòi bút tài hoa, bút pháp ước lệ cùng cảm hứng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ. Trong số đó, đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một đoạn trích nói lên rõ nét tài năng nghệ thuật của nhà thơ này.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du mở ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân:
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi"
Hình ảnh những cánh én chao đi chao lại, dập dìu như thoi đưa cho thấy một bức tranh thiên nhiên thật sinh động. Nhà thơ Nguyễn Du bằng bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất gợi hình, đã mở ra cả không gian và thời gian của mùa xuân ở hai câu thơ đầu. Lúc này, mùa xuân đang ở vào thời điểm cuối tháng ba "ngoài sáu mươi", là thời điểm viên mãn nhất, tròn đầy nhất với những ánh sáng rực rỡ trên bầu trời "Thiều quang".
Thiều quang miêu tả thứ ánh sáng của mùa xuân, đó là ánh sáng ấm áp, hồng hào của nắng xuân êm dịp. Đứng trước vẻ đẹp đó, con người ta không khỏi xao xuyến, bâng khuâng và nuối tiếc về sự trôi chảy của thời gian. Hai câu thơ sau là một nét chấm phá độc đáo của nhà thơ:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Mùa xuân, mùa đầu tiên trong năm, hứa hẹn mở ra một năm mới tràn đầy rực rỡ và thành công. Chính vì vậy mà mùa xuân là một mùa ngập tràn sức sống, cây cỏ tươi tốt, đơm hoa kết trái. Bức tranh thiên nhiên lúc này ngập tràn màu xanh, một màu xanh non mơn mởn của sự vật kéo dài đến tận chân trời.
Trên nền bức tranh tuyệt đẹp đó điểm một vài bông hoa lê trắng, từ "điểm cho thấy sự tinh tế của nhà thơ khi miêu tả sự vật. Tóm lại, qua bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên cao, rộng, thoáng đạt, cùng với cảm xúc xao xuyến, bâng khuâng của con người trước cảnh đẹp của đất trời khi vào xuân. Từ bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy, nhà thơ bắt đầu miêu tả những hoạt động của con người:
"Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh"
Trong tiết thanh minh đầu tháng ba, mọi người rủ nhau đi tảo mộ và thắp nén hương cho người đã khuất. Câu thơ cho thấy tục lệ cũng như nét truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, đó là truyền thống "Uống nước nhớ nguồn". Dù có đi đâu xa thì đến ngày giỗ của Tổ tiên, con cháu xa gần đều tụ họp lại để tưởng nhớ đến người thân của mình. Cùng với truyền thống đó là ngày hội mùa xuân. Mọi người, từ lớn đến nhỏ đều háo hức, tấp nập đi chơi xuân:
"Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm"
Trong bốn câu thơ này, nhà thơ đã sử dụng một loạt những tính từ: "gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức,...." cho thấy sự đông đúc, không khí rộn ràng, náo nhiệt của lễ hội. Người người, nhà nhà đi chơi hội, đông đúc như chim yến, chim oanh, hình ảnh "nô nức yến anh" cho thấy ngòi bút miêu tả tài hoa của Nguyễn Du. Các từ láy "sắm sửa, dập dìu" khắc họa lên những hoạt động vui tươi, nhộn nhịp của con người.
Khung cảnh ấy đông đến mức nhà thơ so sánh ngựa xe nhiều như nước, áo quần nhiều như nêm. Những nam thanh, nữ tú đang tuổi cập kê như chị em Thúy Kiều, Thúy Vân chính là tâm điểm của lễ hội. Họ kéo tay nhau, tưng bừng háo hức trước vẻ đẹp của mùa xuân, cũng là háo hức trước mùa xuân cuộc đời mình. Trong sự tươi vui ấy, con người vẫn không quên những người đã khuất với việc làm lại thể hiện lên phong tục, tập quán của người Việt:
"Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay"
Họ đốt giấy vàng gửi cho người đã khuất với mong muốn ở Thế giới bên kia, những người đã khuất cũng sẽ được sống đủ đầy, hạnh phúc. Hai câu thơ cuối là tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi lễ hội kết thúc:
"Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về"
Cuộc vui nào cũng có lúc tàn, là lúc mọi người trở về với cuộc sống bình thường của họ. Chị em Thúy Kiều cũng như vậy, bóng đã ngả về tây, trời đã bắt đầu tối, mọi người phải trở về nhà thôi. Cảnh hoàng hôn lúc này được miêu tả thật đẹp nhưng cũng thật buồn. Hình ảnh chị em Kiều "thơ thẩn" ra về cho thấy một cảm xúc nuối tiếc, một nỗi buồn man mác khi chứng kiến lễ hội mùa xuân kết thúc. Đặc biệt là trong tâm hồn đa sầu, đa cảm của Kiều thì bức tranh chiều tà khép lại càng buồn hơn:
"Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Những sự vật ngày càng trở nên nhỏ bé, không gian hẹp lại cũng đồng nghĩa với việc bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp phải khép lại rồi. Trong bốn câu thơ cuối, có đến ba câu nhà thơ sử dụng từ láy "thanh thanh", "nao nao", nhỏ nhỏ". Tất cả gợi lên một bức tranh thiên nhiên trầm lắng, không còn mơn mởn, đầy sức sống như ở đầu bài thơ.
Nó cũng phù hợp với những chuyển biến trong tâm trạng của Kiều, sau những niềm vui, nàng không biết được điều gì đang đón đợi ở phía trước. Bốn câu thơ cũng như dự cảm chẳng lành của Kiều đối với cuộc đời nàng sau này, một "dịp câu nho nhỏ" bắc ngang có chăng là lời dự đoán cuộc đời Kiều sẽ rẽ sang một hướng khác? Qua đó, ta mới thấy được tài năng miêu tả cũng như khắc họa tâm trạng của nhân vật thông qua bức tranh thiên nhiên của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân - một đoạn trích tuy ngắn nhưng lại rất đầy đủ khi nêu lên cả ngòi bút tả cảnh và tả tâm trạng nhân vật khéo léo của nhà thơ. Qua đó, ta được một bức tranh thiên nhiên thật đẹp, gợi mở sự tò mò của người đọc đối với cuộc đời Thúy Kiều ở phía trước.