05/06/2017, 00:00

Bài tập làm văn số 6, Ngữ văn 9

Đề 1. Suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” (Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng)Đề 2. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp? Đề 1. Suy nghĩ của ...

Đề 1. Suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” (Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng)Đề 2. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp?

Đề 1. Suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” (Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng)

Tuổi thơ trong ký ức của mỗi con người bao giờ cũng chất chứa biết bao điều kỳ diệu: nhiều khi là cánh diều chao giữa tầng không với muôn ngàn sắc màu rực rỡ; lắm lúc lại là cánh cò trắng chập chờn bay vào những giấc mơ; và thỉnh thoảng là chị Hằng Nga sống trên cung trăng bên chú Cuội… Nhưng hình ảnh ta đều bắt gặp trong mọi ký ức tuổi thơ lại chính là Mẹ – quen thuộc và gần gũi nhất. “Trong lòng mẹ” trích “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng là đoạn trích đã gây nhiều xúc động mạnh mẽ cho người đọc khi thể hiện gần như trọn vẹn những tình cảm sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng chất chứa trong từng câu chữ.
 
Đến với tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta không phải là thưởng thức những câu chuyện được dựng xây bằng tưởng tượng mà Nguyên Hồng đã “lôi kéo” con người cùng sống chung với cuộc đời số phận của nhà văn – chứ không còn là nhân vật. Bởi lẽ Những ngày thơ ấu là một phần kỷ niệm được rút ra trong tuổi thơ cay cực của chính nhà văn. Nó là những trang hồi ký chứa đầy nước mắt, thổn thức xót xa của một trái tim sớm phải nếm vị đắng cuộc đời, thiếu vắng tình thương và luôn khát khao tình yêu của mẹ. Niềm khát khao ấy cháy bỏng, mãnh liệt như muốn phá tung tất cả để tìm đến tình thương, tìm đến người mẹ. Và cũng chính từ tình cảm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử. Đó là động lực để giúp những đứa trẻ vượt lên khó khăn, vượt lên hoàn cảnh bất hạnh để tìm đến một tương lai rạng ngời. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô hình an ủi và chở che cho những trái tim run rẩy.
 
Đoạn trích Trong lòng mẹ là câu chuyện chân thực và cảm động về một người mẹ đáng thương phải chạy trốn những hủ tục khắt khe của xã hội, những định kiến nghiệt ngã của người đời trói buộc, đọa đày người phụ nữ. Cũng như đó là một tâm hồn nhạy cảm, trong trắng, thơ ngây của một trái tim luôn tôn thờ người mẹ – bé Hồng. Hoà chung những giọt nước mắt nóng hổi của cậu bé là giọt nước mắt cảm thương trước những kỷ niệm sâu sắc tuổi thơ còn buốt nhói trong lòng người đọc để người đọc nhận ra: đó là một phần hình thành nên hồn văn nhân ái Nguyên Hồng.
 
Sinh ra trong gia đình bất hạnh, bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không có tình yêu, lại càng gánh bất hạnh nhiều hơn nữa. Một ông bố nghiện ngập rồi chết mòn chết rục bên bàn đèn thuốc phiện để lại cho người mẹ tất cả những cùng túng của gia đình, cuối cùng phải ly hương kiếm sống. Thế là chỉ còn một mình bé Hồng phải sống với gia đình họ nội, hứng chịu tất cả sự hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt, lắng nghe tất cả những gièm pha về người mẹ đi tha phương cầu thực. Trong những câu chuyện được thêu dệt bởi “bà cô bên chồng”, người mẹ luôn bị khinh khi, chửi mắng thậm tệ nhưng nào ai hiểu rằng nỗi khổ tâm lớn nhất là cảnh xa con? Chỉ mỗi bé Hồng hiểu mẹ và yêu mẹ hơn tất cả. Những dấu ấn thành kiến của xã hội cay nghiệt ghi đậm dấu ấn trong tâm hồn non nớt của bé Hồng, tạo nên những suy nghĩ già trước tuổi nhưng không thể nào xoá được những tình cảm kính yêu tôn thờ người mẹ. Số phận trớ trêu đã diễn ra ngay trong những mối quan hệ gia đình là nỗi bất hạnh của đứa trẻ không được sống trong vòng tay yêu thương chăm sóc của mẹ. Bé Hồng đặt ngay giữa ranh giới của thành kiến và tình thương. Nếu bà cô là hiện thân của một xã hội đầy cổ tục để phê phán, đem đến những định kiến cho chị dâu goá bụa trẻ trung thì bé Hồng lại hiện lên với tất cả tình thương, sự bao dung tha thứ. Thiếu sự nhân ái, độ lượng đã đành, bà cô lại càng ích kỷ nhẫn tâm hơn khi cố tình làm tổn thương tâm hồn thơ trẻ của chính đứa cháu ruột của mình bằng cách “gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà bị cái tội goá chồng, nợ nần cùng túng quá phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực”. Với bé Hồng, trong ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ , ấn tượng của giọng nói và nụ cười rất kịch là hình ảnh không thể xoá mờ.
 
Ta nhận ra, đằng sau lời nói nhẹ nhàng thản nhiên như không kia là cả một “tâm xà” mù quáng và thù hận. Nhưng dù hàng ngày phải đối mặt với con người độc địa ấy, chú bé Hồng vẫn không “đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến”. Chỉ một câu nói thôi nhưng chứa đựng một lời khẳng định chắc nịch cho một điều tưởng chừng thật giản dị, tình cảm mẹ con đã là một mối dây bền chặt mà không gì có thề chia cắt được.
 
Mặc dù được sống trong một hoàn cảnh vật chất có phần sung sướng hơn những đứa trẻ lang thang không có mái nhà nhưng đối với bé Hồng có lẽ hoàn cảnh ấy lại càng đáng thương hơn. Vốn dĩ đã không nhận được một chút tình thương từ họ hàng, ấy vậy mà tình thương dành cho mẹ lại đang bị người khác tước đoạt mất. Bé Hồng bị bao bọc bởi lòng ganh ghét đố kị, một cuộc sống căng thẳng vây lấy tâm hồn vì luôn phải chịu đựng áp lực từ chính người thân. Nỗi đau đó lại càng đau hơn gấp ngàn lần so với sự thiếu thốn về vật chất. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh như vậy, tình cảm bé Hồng đối với mẹ vẫn không hề mai một. Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện ấy đáng quý biết dường nào! Vẫn là một đứa trẻ vô tư, nhưng bé Hồng đã già trước tuổi khi biết căm tức thành kiến tàn ác, quyết tâm bảo vệ mẹ đến cùng, cố chống lại sự xâm nhập của những tư tưởng xấu xa. Nhưng trong những hành động ấy là cả một tâm hồn hiếu thảo có sự đứng đắn của người đàn ông thực thụ muốn che chở cho người mình yêu thương và cả sự dễ thương của tâm hồn thơ trẻ không muốn cho ai bắt nạt mẹ mình.
 
Tuy vậy, dưới sự tra tấn về mặt tinh thần quá nặng nề, những lời nói độc ác vẫn tuôn ra không ngớt, sức chịu đựng của một đứa trẻ cũng chỉ có hạn mà thôi nên bà cô đã đạt được mục đích của mình khi xoáy sâu vào lòng đứa cháu trai những vết thương lòng. Giọt nước mắt tủi buồn “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ” là giọt nước mắt mang đầy mặc cảm thân phận của tâm hồn tinh tế, dễ tủi thân và giàu xúc động. Lời văn mô tả vào diễn biến tâm trạng bé Hồng một cách cụ thể từ một nụ cười tin tưởng thơ ngây cho đến cười dài trong tiếng khóc. Khoảnh khắc hứng chịu lời xỉa xói của bà cô thay cho mẹ đau đớn đến quặn lòng: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất, lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”. Giọt nước mắt nóng hổi trên gương mặt kia đã đánh động lòng trắc ẩn trong tâm tư người đọc. Rồi tiếng cười dài bật ra trong tiếng khóc nức nở đã vỡ bung những xúc cảm đè nén bấy lâu để sau đó lại “nghẹn ứ khóc không ra tiếng”. Đây là đỉnh cao trong tâm trạng, sự phẫn nộ lên đến tột bậc để hiện ra nguyên vẹn là tình cảm chân thực dành cho mẹ không hề giấu giếm.
 
“Mợ ơi… mợ ơi… mợ ơi!”, tiếng gọi thống thiết của bé Hồng đã khuấy động cả không gian. Tiếng kêu vội vã, kéo dài mà mơ hồ có một sự sợ hãi đã diễn giải đầy đủ những khát khao trong tâm hồn đứa trẻ thiếu thốn tình thương. Thật xúc động biết bao trước giây phút lo lắng hồi hộp khi sợ nhận nhầm người mà mình gọi là “mợ”. Điều đó lại càng khẳng định cho niềm mong mỏi được gặp mẹ của bé Hồng. Bởi không phải những xúc cảm mãnh liệt thôi thúc thì tiếng nói cất lên sẽ rất e dè, thận trọng, thậm chí không dám cất lên khi chưa chắc chắn. Nhưng dẫu cho có sự mơ hồ, tình mẫu tử thiêng liêng, nỗi nhớ nhung khắc khoải trong bao năm xa cách, tiếng gọi đã vang lên đến độ đã níu kéo được chân người, xé toạc không gian. Nhưng sự “ngờ ngợ” ấy đã không còn mơ hồ nữa, khi người thiếu phụ dừng xe lại và bé Hồng nhận ra đích thị là mẹ. Người mẹ trở về trong niềm vui, hân hoan và hạnh phúc của đứa con trai bé bỏng. Lần nữa, bé Hồng lại cất tiếng khóc khi được đón nhận sự chở che, thương yêu, bảo bọc: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Nếu những lần trước là tiếng khóc kìm nén, những giọt nước mắt rưng rưng không tràn ra được thì giờ đây lại là những tiếng nức nở làm vơi đi nỗi uất ức, tủi cực trong lòng. Tiếng khóc vang vọng hơn không còn chất chứa nỗi niềm xót xa mà tràn trề niềm hạnh phúc. Giọt nước mắt hôm nay hoà chung giữa hai con người, là sự oà vỡ của cả hai tâm hồn mẹ – con làm nên tình mẫu tử.
 
Hình ảnh người mẹ được diễn tả bằng những nét tươi tắn sinh động trong đôi mắt nhìn của đứa con, mẹ vẫn đẹp một cách lạ lùng. Vẻ đẹp ấy không cần rực rỡ mà nó chỉ giản dị và vô cùng thân thương. Bởi trong cái nhìn của bé Hồng bằng tất cả sự xúc động và tình thương vô bờ bến thì mẹ bao giờ chẳng là người đẹp nhất! Từ đó, gợi đến niềm ước mơ mà bất kỳ đứa con nào cũng khát khao khi đứng trước mẹ “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”.
 
Dường như ,đoạn văn đã ắp đầy những cảm xúc êm ái lan toả toàn bộ không gian và thời gian. Phút giây gặp gỡ ấy như ngưng đọng mãi niềm hạnh phúc trong trái tim nhân vật cũng như người đọc.
 
Không giống như Mợ Du hay Huệ Chi trước lễ cưới kết thúc là một cái chết khiến người đọc đau đớn đến sửng sốt, mặc dù vẫn là những cảm xúc về mẹ nhưng ở đây lại là một kết cục có hậu như là sự bù đắp cho tâm hồn thánh thiện của người con hiếu thảo.
 
Cảnh đời thực của những số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ vẫn còn bị ràng buộc bởi hủ tục phong kiến khắt khe đã được ghi lại đầy đủ đậm nét bằng những trang hồi ký nóng hổi niềm thương cảm của chính tác giả. Nhằm phản ánh một xã hội bất công, đồng thời lên tiếng bảo vệ cho con người bất hạnh, tác phẩm đã thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả. Gắn với tình cảm chân thành của nhà văn là sự chuyển tải nỗi xúc động trong từng câu chữ hình ảnh đã khắc hoạ sâu sắc giá trị tình cảm thiêng liêng trong gia đình: tình mẫu tử. Trong lòng mẹ cũng là tiêu biểu cho phong cách “văn nóng” của Nguyên Hồng.
 
Có những tình cảm dễ dàng đổ vỡ trước chông gai nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của bé Hồng đã không hề lay chuyển. Đó cũng là sự nhắc nhở cho mỗi con người phải biết thương yêu kính trọng mẹ với tất cả tình cảm của mình. Có những tác phẩm đã mau chóng bị lãng quên nhưng giá trị Trong lòng mẹ cũng như Những ngày thơ ấu sẽ mãi mãi trường tồn, bởi nó không những chứa đựng một tình cảm nhân đạo sâu sắc mà còn là một triết lí về giá trị tình cảm gia đình, thấm đượm chất thơ giữa cuộc đời nhiều cay cực.
 
*
****

Đề 2. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp?

Sinh ra trong một vùng đất giàu truyền thống văn hoá, tại một làng quê vừa đẹp vừa thơ mộng là làng Phù Lưu thuộc Bắc Ninh xưa, Kim Lân sớm hiểu làng, yêu làng và viết về làng quê bằng cái nhìn tinh tế, sắc sảo. Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn có vị trí nổi bật, truyện nói về lòng yêu nước của ông Hai - nhân vật chính của truyện là một người yêu làng, yêu nước. Tình yêu làng ở ông có những nét đặc sắc, riêng biệt, được thể hiện thành một cá tính đáng quý.
 
Ông Hai yêu nước và tự hào về làng Dầu, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi quê cha đất tổ của ông. Tình cảm ấy thể hiện trước hết ở cái tính hay khoe về làng, lấy làm hãnh diện về làng của mình. Đọc xong truyện, người ta có thể gọi ông Hai là ông Hai làng chợ Dầu hoặc ông Hai khoe đều được. Tên gọi thứ nhất dùng để chỉ nguồn gốc, còn tên gọi thứ hai dùng để chỉ đặc điểm. Mà thực ra thì có ai biết làng chợ Dầu của ông như thế nào. Người ta chỉ biết nó qua lời kể của ông là chính. Rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn thế, không hề thay đổi, không hề lay chuyển.
 
Vì yêu làng nên ông Hai không muốn xa làng, nhất là làng ông đang trong thờ kì chuẩn bị đánh giặc. Là một người nông dân hay lam hay làm, gặp lúc nhong nhong  ngồi ăn, lại sống một nơi khác với cái làng yêu quý, ông Hai cảm thấy tù túng, bức bối, Để khuây khỏa, ông lại đi chơi. Mà lại đi chơi thì ông lại khoe! Ông khoe say sưa đến mức không đế ý đến người tiếp chuyện. Điều này cũng thật dễ hiểu. Buồn vui của làng trở thành buồn vui của chính ông lúc nào không rõ.
 
Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi bận đi đâu xa ông thường khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông hoặc khi có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông cũng dắt ra xem lăng cụ Thượng cho kì được... Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm. Chết! Chết tôi chưa thấy được cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cụ Thượng làng tôi. Có lắm lắm là của, vườn hoa cây cảnh nom như động ấy!... Từ chỗ say sưa, ông nhận vơ vào mình, ông thấy cái lăng ấy một phần như có ông. Muốn hay không, ông Hai đã khoe nhầm, tình yêu làng của ông khiến cho ông có phần mù quáng. Sau Cách mạng, nhờ giác ngộ chính trị, tuyệt nhiên người ta không thấy ông nhắc đến điểm son mà ông thường hay đem ra khoe trước đây. Thậm chí, ông còn bảo ông thù nó vì chính cái làng ấy làm khổ ông, làm khổ bao nhiêu người làng này nữa. Đối tượng khoe của ông Hai giờ là làng chợ Dầu đang trong khí thế sôi nổi, hào hùng thời khởi nghĩa: Trẻ, già, trai, gái tham gia cướp chính quyền, tập tự vệ, đào hào, đắp ụ chuẩn bị chống Pháp. Tất cả những chuyện này được ông Hai kể rành rọt từng cái một, cứ y như ông là người trong cuộc. Ông còn khoe làng ông có cái phòng thông tin thoáng mát nhất vùng với cái chòi phát thanh cao, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy.
 
Mồi lần kể chuyện về làng, ông nói một cách say sưa, náo nức lạ thường, hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Tóm lại, ở ông, việc khoe làng đã trở thành một cái tật, một thứ nghiện. Ông nói về làng ông cho sướng cái miệng, cho đỡ nhớ cái làng. Ta hiểu đằng sau cái tật đó chính là tấm lòng chân thật gắn bó của ông với làng, là niềm tự hào chân chính của ông với quê hương.
 
Ông Hai say sưa kể những thành tích của làng, càng say sưa hơn khi nhớ lại những thành tích đó có một phần đóng góp của ông. Ông tự hào nhớ lại thuở ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối, vác gậy đi tập một, hai. Khi dân làng tản cư, ông ở lại, cùng anh em đi đào đường, đắp ụ, công việc bộn bề, ông mải mê làm chẳng còn kịp nghĩ đến vợ con, nhà cửa nữa.
 
Ồng là người nói được, làm được. Công việc chung của làng, ông nói say sưa mà làm cũng say sưa.
 
Vì ông yêu mến làng nên mọi đau khổ hay niềm vui sướng đều gắn với cái làng quê yêu dấu đó.
 
Khi bất đắc dĩ phải tản cư, ông buồn khổ lắm. Tiếc nhất là không được góp phần gánh vác công việc chung của những người còn lại.
 
Lòng yêu nước, yêu làng của ông Hai được thể hiện một cách cảm động qua diễn biến tâm trạng của ông. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống (có tin thất thiệt về làng chợ Dầu đã đi theo giặc) ông Hai vô cùng đau xót cổ ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, ông cúi gầm cái mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường không dám ló ra khỏi nhà. Ông buồn, ông xấu hổ. Ông tự tranh luận với mình, tự dằn vặt mình hoặc đâm cáu gắt với vợ con. Nhiều lúc nước mắt ông lão cứ chực tràn ra. Đêm, ông trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này, trở mình bên kia thở dài. Có lúc ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên được. Tiếng đồn loang ra, cả gia đình ông vô cùng buồn khổ. Mụ chủ nhà đuổi khéo vợ chồng con cái ông ra khỏi nhà. Ông Hai rơi vào bế tắc, tuyệt đường sinh sống. Không thể trở về làng, vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Cũng không thể đi đâu, vì ở đâu người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu... Mâu thuẫn đến đây đã phát triển với cao trào, với tâm trạng của ông Hai được bộc lộ sâu sắc và cảm động hơn bao giờ hết.
 
Nhưng rồi cái tin thất thiệt về làng ông được cải chính. Đến lúc này, mọi nỗi đau của ông Hai biến mất. Mới đến ngõ, chưa kịp vào nhà, ông đã hô bỏ, rồi lật đật sang nhà bác Thứ, lật đật bỏ lên nhà trên, lật đật đi nơi khác để khoe. Vừa khoe vừa múa tay lên. Ông vui vì làng ông vẫn kiên gan đi theo kháng chiến, vui đến mức chuyện nhà ông bị Tây đốt nhẵn trở thành nhỏ bé, không đáng lưu lâm. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy cảm động hơn, trân trọng hơn tình yêu làng, tình yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến của ông Hai. Giờ đây, tình yêu lớn lao sâu sắc ấy đã khiến ông quên mọi thứ ưu phiền, ông lại te tái đi khắp nơi để khoe. Mà lần này, ông khoe rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa dự trận đánh ấy xong thật.
 
Đây lại là những lúc ông Hai lấy làm vinh dự về làng, tự hào về làng quê mình, anh dũng phá càn, thắng giặc.
 
Ông Hai là người gắn bó thiết tha với quê hương. Vì quê hương nên ông yêu nước, kính yêu cụ Hồ, hăng hái tham gia kháng chiến.
 
Văn hào I-li-a E-ren-bua có nói: lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Ông hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
 
Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên ông Hai một người nông dân thuần phác, yêu làng, yêu quê tha thiết. Số phận của ông gắn liền với thăng trầm của làng quê. Nhà văn Kim Lân đã diễn tả được diễn biến tâm lí của người nông dân bằng một thứ ngôn ngữ bình dị gắn liền với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Truyện Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

0