Bài soạn "Chiếu dời đô" số 4 - 6 Bài soạn "Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn lớp 8 hay nhất
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM 1. Tác giả: Lí Công Uẩn: (974 - 1028) tức Lí Thái Tổ. Quê quán: người châu Cổ Pháp, giải phóng Bắc Giang (nay là đảo Đình Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn và lập nhiều chiến công. 2. Thể loại: Chiếu ...
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả:
Lí Công Uẩn: (974 - 1028) tức Lí Thái Tổ.
Quê quán: người châu Cổ Pháp, giải phóng Bắc Giang (nay là đảo Đình Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn và lập nhiều chiến công.
2. Thể loại: Chiếu
Thể văn do vua dùng đề ban bố mệnh lệnh
Chữ có thể viết bằng văn bản, văn bẩn hoặc văn xuôi.
Được công bố và đón nhận một cách trang trọng
3. Tác phẩm
Chiếu dời đô được viết vào năm Canh Tuất (1010), muốn dời đô từ Hoa Lư nhỏ hẹp đến Đại La rộng, thuận tiện cho việc mở mang và củng cố, bảo vệ đất nước.
Tuy là một bài có ý nghĩa lệnh mệnh lệnh nhưng Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn có sức mạnh thuyết phục mạnh mẽ vì đúng ý nguyện của dân, hợp lí, hợp tình
Tác giả đã sử dụng hệ thống tài liệu chặt chẽ, biểu tượng nhỏ gọn, giọng điệu mạnh mẽ, khoẻ mạnh để thuyết trình cho người dùng và ủng hộ bản thân mình.
Văn bản Chiêu dời đô thành Nguyễn Đức Vân dịch.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 51 sgk ngữ văn 8 tập 2
Mở đầu chiếu dời đô, Lí Công Uẩn viện dẫn sử sách Trung Quốc nói về việc các vua đời xưa bên Trung Quốc cũng từng có những cuộc dời đô. Sự viện dẫn đó nhằm mục đích gì?
Bài làm:
Đây là đoạn văn có tính chất nêu tiền đề, làm chỗ dựa cho lý lẽ ở những phần tiếp theo. Trong đoạn này, tác giả viện dẫn sử sách nói về việc dời đô của các vua thời xưa bên Trung Quốc.
"Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh."
Sự viện dẫn trên nhằm mục đích: chuẩn bị cho lý lẽ ở phần sau: Trong lịch sử đã từng có chuyện dời đô và đã từng đem lại những kết quả tốt đẹp. Việc Lý Thái Tổ dời đô không có gì là khác thường, trái với quy luật. Bởi bài học dời đô của nhà Thương và nhà Chu đã cho thấy sau này đất nước phát triển phồn thịnh.
Câu 2: Trang 51 sgk ngữ văn 8 tập 2
Theo Lí Công Uẩn, kinh đô cũ ở vùng núi Hoa Lư (Ninh Bình) của hai triều Đinh, Lê là không còn thích hợp, vì sao? Xem lại chú thích (8) ở trên để hiểu lí do khiến hai triều Đinh, Lê vẫn phải dựa vào vùng núi Hoa Lư để đóng đô.)
Bài làm:
Tác giả nhận định rằng việc đóng đô ở vùng Hoa Lư đã không còn phù hợp nữa: “Cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi“. Hoa Lư là vùng có địa thế hiểm trở, khi tiềm lực phát triển chưa đủ mạnh thì nó hợp với chiến lược phòng thủ.
Nhưng đến đời Lí thì đất nước đặt ra nhu cầu phát triển, cho nên đô thành phải dời chuyển ra nơi có địa thế khác. Không chỉ có lí lẽ, Lí Công Uẩn bày tỏ cả tấm lòng mình: “Trẫm rất đau xót về việc đó“.
Câu 3: Trang 51 sgk ngữ văn 8 tập 2
Theo tác giả, địa thế thành Đại La có những thuận lợi gì để có thể chọn làm nơi đóng đô? (Chú ý vị trí địa lí, hình thế sông núi, sự thuận tiện trong giao lưu, phát triển về mọi mặt.)
Bài làm:
Vị thế thành Đại La thuận lợi về nhiều mặt. Về mặt địa lí, tác giả phân tích rõ: “Nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi“, bốn hướng đều thông thoáng lại ở thế “nhìn sông dựa núi” vững vàng, “địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng“. Trên địa thế ấy, dân cư sẽ tránh được lụt lội mà “muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi“.
Thuận lợi về mặt địa lí như vậy sẽ kéo theo những thuận lợi về thông thương, giao lưu: “Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước“.
Nơi định đô mới này sẽ đáp ứng được vai trò là đầu mối trung tâm của kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước.
Câu 4: Trang 51 sgk ngữ văn 8 tập 2
Chứng minh Chiếu dời đô có sức thuyết phục lớn bởi có sự kết hợp giữa lí và tình.
(Gợi ý:
- Trình tự lí lẽ mà Lí Công Uẩn đưa ra để khẳng định việc cần thiết phải dời đô.
- Lời ban bố mệnh lệnh mà lại có những đoạn bày tỏ nỗi lòng, có những lời như đối thoại. Ngôn từ mang tính chất đối thoại, tâm tình ở hai câu cuối bài chiếu có tác dụng như thế nào?
Bài làm:
Trình tự lập luận cho việc cần thiết phải dời đô:
Nêu sử sách bên Trung Quốc làm tiền đề, làm chỗ dựa cho lý lẽ.
Soi tiền đề vào thực tế của hai triều đại Đinh, Lê để chỉ rõ thực tế ấy không còn thích hợp với sự phát triển của đất nước, cần thiết phải dời đô.
Đi tới kết luận: Khẳng định thành Đại La là nơi tốt nhất để chọn làm Kinh Đô.
Đây là lời ban bố mệnh lệnh nhưng lại có những đoạn bày tỏ nỗi lòng, có những lời như đối thoại, trao đổi. Ví như "Trẫm rất đau xót về việc đó", đặc biệt là hai câu cuối bài chiếu tại tính chất đối thoại và trao đổi chứ không phải là tính chất đơn thoại, một chiều của người trên ban bố cho kẻ dưới. Và vì thế, lời văn tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa mệnh lệnh của vua với thần dân, ai ai cũng xúc động.
Câu 5: Trang 51 sgk ngữ văn 8 tập 2
Vì sao nói việc Chiếu dời đô ra đời phản ánh ý chí độc lập, tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt?
Bài làm:
Vùng Hoa Lư là vùng núi hiểm trở, khi đất nước còn chưa ổn định phát triển thì đây là nơi chiến lược phòng thủ.
Đến thời nhà Lí, Lí Công Uẩn giám dời đô ra vùng đồng bằng chứng tỏ nhà Lí đã có đủ thực lực để xây dựng đất nước, phát triển kinh thế. Có thể trấn an dân chúng, chống lại giặc ngoại xâm.