Bài 19: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953) – Lịch sử 12
Trong giai đoạn 1946-1950, quân và dân ta đã làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp, buộc chúng phải đánh lâu dài với quân ta. Đến năm 1952 cuộc kháng chiến chống Pháp có thêm bước phát triển mới. A. Lý thuyết I. THỰC DÂN PHÁP ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC ĐÔNG DƯƠNG ...
Trong giai đoạn 1946-1950, quân và dân ta đã làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp, buộc chúng phải đánh lâu dài với quân ta. Đến năm 1952 cuộc kháng chiến chống Pháp có thêm bước phát triển mới.
A. Lý thuyết
I. THỰC DÂN PHÁP ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC ĐÔNG DƯƠNG
1. Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh
– Từ tháng 5/1949, Mỹ can thiệp sâu vào chiến tranh xâm lược Đông Dương:
+ 23/12/1950, ký với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương, viện trợ quân sự, kinh tế – tài chính cho Pháp, từng bước thay Pháp ở Đông Dương.
+ Tháng 9/1951, ký với Bảo Đại “Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt – Mỹ” nhằm ràng buộc Bảo Đại vào Mỹ.
– Viện trợ của Mỹ chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong ngân sách chiến tranh Đông Dương (1950 là 52 tỉ phrăng – chiếm 19 % ngân sách; 1953 là 285 tỉ phrăng – chiếm 43 % ngân sách).
– Các phái đoàn viện trợ kinh tế, cố vấn quân sự Mỹ đến Việt Nam ngày càng nhiều. Các trung tâm, trường huấn luyện Mỹ tuyển chọn người Việt Nam sang Mỹ học.
2. Kế hoạch Đờ Lát đơ Tát-xi-nhi
6/12/1950 dựa vào viện trợ Mỹ Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi (De Lattre de Tassiny), đề ra kế hoạch mới, mong kết thúc nhanh chiến tranh.
Kế hoạch có 4 điểm chính:
+ Tập trung quân Âu – Phi xây dựng một lực lượng cơ động mạnh, phát triển nguỵ quân, xây dựng “quân đội quốc gia”.
+ Xây dựng phòng tuyến công sự xi măng cốt sắt (boong ke), lập “vành đai trắng” bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm ngăn chặn chủ lực ta và kiểm soát ta đưa nhân, tài, vật lực ra vùng tự do.
+ Tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định vùng tạm chiếm, vơ vét sức người, sức của của nhân dân ta để tăng cường lực lượng của chúng.
+ Đánh phá hậu phương của ta (biệt kích, thổ phỉ, gián điệp, chiến tranh tâm lý, chiến tranh kinh tế).
Làm cho cuộc đấu tranh của ta ở vùng sau lưng địch trở nên khó khăn, phức tạp.
II. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ HAI CỦA ĐẢNG (2/1951)
– Từ ngày 11 đến 19/2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Vinh Quang – Chiêm Hóa ( Tuyên Quang), thông qua hai bản báo cáo quan trọng:
+ Báo cáo chính trị do Hồ Chủ tịch trình bày tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của Đảng qua các thời kỳ, khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng.
+ Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày, nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng VN là đánh đuổi đế quốc, tay sai, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn, thực hiện “Người cày có ruộng “ phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
– Tách Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập ở VN, Lào, Cam-pu-chia mỗi nước một Đảng Mác – Lênin riêng phù hợp với từng dân tộc.
– Ở Việt Nam, lập Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng hoạt động công khai.
– Thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới; xuất bản báo Nhân dân, cơ quan Trung ương của Đảng.
– Bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
* Ý nghĩa: đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng.
III. HẬU PHƯƠNG KHÁNG CHIẾN PHÁT TRIỂN MỌI MẶT
1. Chính trị
– Từ ngày 3 đến 7/3/1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt do Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch, Hồ Chí Minh làm Chủ tịch danh dự.
– 11/03/1951, lập Liên minh nhân dân Việt – Miên – Lào, tăng cường khối đoàn kết ba nước đấu tranh chống Pháp và can thiệp Mỹ.
– Ngày 01/05/1952, Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần I chọn 7 anh hùng: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh.
Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh – Liên Việt thành Mặt trận Liên Hiệp Quốc dân Việt Nam, ngày 3/3/1951.
LUẬT CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT được Quốc hội thông qua, ngày 14/12/1953.
Bác Hồ với các đại biểu dự Đại hội Anh hùng, Chiến sỹ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất tại Kim Bình (5/1952).
2. Kinh tế
– Nông nghiệp: năm 1952, Chính phủ vận động lao động sản xuất và tiết kiệm, lôi cuốn mọi giới tham gia. (Năm 1953 sản xuất 2,7 triệu tấn thóc, hơn 65 vạn tấn hoa màu.)
– Thủ công nghiệp và công nghiệp đáp ứng yêu cầu về công cụ sản xuất và thiết yếu của đời sống. Năm 1953, ta sản xuất được 3.500 tấn vũ khí đạn dược, cung cấp tạm đủ thuốc men, quân trang, quân dụng.
– Chấn chỉnh thuế khóa, xây dựng nền tài chính, ngân hàng, thương nghiệp.
– Bồi dưỡng sức dân và phát động giảm tô, cải cách ruộng đất: 5 đợt giảm tô, 1 đợt cải cách ruộng đất.
3. Văn hóa, giáo dục, y tế
– Giáo dục: tiếp tục cải cách giáo dục với 3 phương châm “phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất”, nhà trường gắn với xã hội, 1952 có trên 1.000.000 học sinh phổ thông, bình dân học vụ, bổ túc văn hóa phát triển.
– Văn hóa: thực hiện “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.
– Y tế: chăm lo sức khỏe, vận động phòng bệnh, xây dựng bệnh viện, bệnh xá, thực hiện đời sống mới, bài trừ mê tín dị đoan.
IV. NHỮNG CHIẾN DỊCH TIẾN CÔNG GIỮ VỮNG QUYỀN CHỦ ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG
1.Các chiến dịch trung du và đồng bằng Bắc Bộ ( cuối 1950 đến giữa 1951)
* Cuối 1950 ta chủ động mở ba chiến dịch:
– Chiến dịch Trần Hưng Đạo (Trung du)
– Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Đường số 18).
– Chiến dịch Quang Trung (Hà – Nam – Ninh)
* Đây là các chiến dịch tiến công có qui mô lớn, đánh vào vùng trung du và đồng bằng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, nhưng kết quả hạn chế vì địa bàn có lợi cho địch.
* Với phương châm: đánh chắc thắng “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”, ta chủ trương mở các chiến dịch ở vùng rừng núi.
2. Chiến dịch Hòa Bình đông – xuân 1951 – 1952
– Hòa Bình là cửa ngõ nối liền vùng tự do với vùng đồng bằng Bắc Bộ, mạch máu giao thông giữa Việt Bắc với Liên khu IV.
– Ngày 09.11.1951, Đơ Lát đơ Tát-xi-nhi tiến đánh Chợ Bến, Hòa Bình.
– Ta mở chiến dịch phản công ở Hòa Bình nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá kế hoạch bình định của chúng và đẩy mạnh phong trào du kích.
– Kết quả: Ta giải phóng khu vực Hòa Bình – sông Đà rộng 2000 km2 với 15 vạn dân, căn cứ du kích mở rộng từ Bắc Giang xuống Hòa Bình.
– Ý nghĩa: Là thắng lợi của nghệ thuật chỉ đạo chiến đấu phối hợp giữa chiến trường chính với chiến trường cả nước.
3. Chiến dịch Tây Bắc thu- đông 1952
– Tây Bắc là vùng chiến lược quan trọng, Pháp đã chiếm đóng, từ đó uy hiếp căn cứ Việt Bắc và che chở cho căn cứ Thượng Lào của chúng.
– Từ 14/10/1952 đến 10/12/1952, ta tiến công Mộc Châu, Thuận Châu, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái.
– Kết quả: ta giải phóng 28.000 km2 với 25 vạn dân gồm Nghĩa Lộ, Sơn la (trừ Nà sản), Yên Bái, 4 huyện ở Lai Châu, hai huyện ở Yên Bái; phá âm mưu lập “xứ Thái tự trị” của địch.
Lược đồ chiến dịch Tây bắc
4. Chiến dịch Thượng Lào xuân hè năm 1953
Thượng Lào là vùng chiến lược quan trọng, là hậu phương an toàn của địch. Đầu 1953, ta phối hợp với Pa thét Lào mở chiến dịch Thượng Lào nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, đẩy mạnh kháng chiến ở Lào.
Kết quả: giải phóng Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa-lì với trên 30 vạn dân. Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, từ 1951 đến 1953 ở Trung và Nam Bộ ta đã tận dụng chiến tranh du kích, tiêu hao sinh lực địch, phá hủy cơ sở kinh tế của chúng.
Lược đồ chiến dịch Thượng Lào
B. Bài tập
Câu 1: Từ sau chiến thắng Biên giới thu-đông năm 1950 đến trước mùa đông-xuân 1953-1954, hậu phương kháng chiến đã phát triển như thế nào trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế ?
Trả lời:
Dựa vào mục 3 phần Kiến thức cơ bản để trả lời.
Câu 2: Thế chủ động đánh địch trên chiến trường chính Bắc Bộ của quân ta sau chiến thắng Biên giới thu-đông năm 1950 đến trước đông-xuân 1953-1954 được thế hiện như thế nào ?
Trả lời:
Các chiến dịch trung du và đồng bằng Bắc Bộ
Cuối 1950 ta chủ động mở ba chiến dịch:
– Chiến dịch Trần Hưng Đạo (Trung du)
– Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Đường số 18).
– Chiến dịch Quang Trung (Hà – Nam – Ninh)
Kết quả: Đây là các chiến dịch tiến công có qui mô lớn, đánh vào vùng trung du và đồng bằng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch
Chiến dịch Hòa Bình đông – xuân 1951 – 1952
Ngày 09.11.1951, Đơ Lát đơ Tát-xi-nhi tiến đánh Chợ Bến, Hòa Bình.
– Ta mở chiến dịch phản công ở Hòa Bình nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá kế hoạch bình định của chúng và đẩy mạnh phong trào du kích.
– Kết quả: Ta giải phóng khu vực Hòa Bình – sông Đà rộng 2000 km2 với 15 vạn dân, căn cứ du kích mở rộng từ Bắc Giang xuống Hòa Bình
Chiến dịch Tây Bắc thu- đông 1952
Từ 14/10/1952 đến 10/12/1952, ta tiến công Mộc Châu, Thuận Châu, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái.
– Kết quả: ta giải phóng 28.000 km2 với 25 vạn dân gồm Nghĩa Lộ, Sơn la (trừ Nà sản), Yên Bái, 4 huyện ở Lai Châu, hai huyện ở Yên Bái; phá âm mưu lập “xứ Thái tự trị” của địch.
Chiến dịch Thượng Lào xuân hè năm 1953
Đầu 1953, ta phối hợp với Pa thét Lào mở chiến dịch Thượng Lào nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, đẩy mạnh kháng chiến ở Lào.
Kết quả: giải phóng Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa-lì với trên 30 vạn dân. Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, từ 1951 đến 1953 ở Trung và Nam Bộ ta đã tận dụng chiến tranh du kích, tiêu hao sinh lực địch, phá hủy cơ sở kinh tế của chúng
Câu 3: Âm mưu và hành động mới của Pháp-Mĩ từ sau thất bại ở chiến dịch Biên giới thu-đông năm 1950 như thế nào ?
Trả lời:
1. Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược đông Dương :
– Từ tháng 5/1949, Mỹ từng bước can thiệp sâu vào xâm lược đông Dương.
+ 23/12/1950, ký với Pháp Hiệp định phòng thủ chung đông Dương, viện trợ quân sự, kinh tế – tài chính cho Pháp và bù nhìn, từng bước thay Pháp ở đông Dương .
+ Tháng 9/1951, ký với Bảo đại “Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt – Mỹ” nhằm ràng buộc Bảo đại vào Mỹ.
– Viện trợ của Mỹ chiếm tỉ lệ ngày càng cao:1950 là 52 tỉ phrăng – chiếm 19 % ngân sách; 1953 là 285 tỉ phrăng – chiếm 43 % ngân sách.
– Các phái đoàn viện trợ kinh tế, cố vấn quân sự Mỹ đến Việt Nam ngày càng nhiều. Các trung tâm, trường huấn luyện Mỹ tuyển chọn người Việt Nam sang Mỹ học.
2. Kế hoạch đờ Lát đơ Tátxinhi :
– Ngày 6/12/1950, đại tướng đờ Lát đơ Tátxinhi làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao uỷ Pháp ở đông Dương, dựa vào viện trợ Mỹ, đề ra kế hoạch mới, mong kết thúc nhanh chiến tranh.
* Kế hoạch có 4 điểm chính :
Tập trung quân Âu – Phi xây dựng một lực lượng cơ động mạnh, phát triển nguỵ quân, xây dựng “quân đội quốc gia”.
Xây dựng phòng tuyến công sự xi măng cốt sắt ( boong ke), lập “vành đai trắng” bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm ngăn chặn chủ lực ta và kiểm soát ta đưa nhân, tài, vật lực ra vùng tự do.
Tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định vùng tạm chiếm, vơ vét sức người, sức của của nhân dân ta để tăng cường lực lượng của chúng.
đánh phá hậu phương của ta.
Làm cho cuộc đấu tranh của ta ở vùng sau lưng địch trở nên khó khăn, phức tạp.
Những chuyên mục hay của Lịch sử lớp 12:
- Giải bài tập Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 12
- Câu hỏi ôn tập môn Lịch sử lớp 12
- Đáp án môn Lịch sử lớp 12
- Đề thi học sinh giỏi môn Lịch sử lớp 12
Trên đây chúng tôi đã trình bày về âm mưu xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp, cùng với đó là những chiến dịch tiến công nhằm giữ vững thế chủ động của quân và dân ta. Chúc các bạn học tập đạt kết quả cao!