24/05/2018, 16:56

Ảnh hưởng của các chính sách trong kinh tế đối ngoại tới hoạt động xuất khẩu của nước ta

Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh CNH-HĐH thì hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện thu hút nguồn vật chất nh­ vốn, thiết bị, vật liệu mà nư­ớc ta đang rất thiếu và rất cần. Tuy nhiên để có thể thu hút đựợc nguồn vật chất đó, n­ớc ...

Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh CNH-HĐH thì hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện thu hút nguồn vật chất nh­ vốn, thiết bị, vật liệu mà nư­ớc ta đang rất thiếu và rất cần. Tuy nhiên để có thể thu hút đựợc nguồn vật chất đó, n­ớc ta phải tạo ra những cơ hội đầu t­ư hấp dẫn để thu hút vốn nư­ớc ngoài, phải có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị tiến kịp khoa học và công nghệ hiện đại. Đồng thời phải đón đầu những kiến thức quản lý kinh tế hiện đại để vận dụng có hiệu quả .

Hoạt động xuất nhập khẩu là một nội dung quan trọng trong hoạt động ngoại thư­ơng. Do đó hoạt động này chịu ảnh hư­ởng trực tiếp của các chính sách ngoại th­ương. Những thay đổi trong hoạt động xuất nhập khẩu làm thay đổi căn bản hoạt động ngoại th­ương, đến lượt mình, những thành công trong hoạt động ngoại thư­ơng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển.

Trong những năm qua, nước ta đã có những chính sách đổi mới theo hướng mở cửa rất hấp dẫn thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thay đổi một cách toàn diện trên các mặt nhu : quy mô mở rộng và tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ cấu nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu cũng đ­ợc mở rộng theo chiều sâu cơ cấu thị trường xuất khẩu đư­ợc mở rộng đặc biệt là hàng xuất khẩu Việt Nam đã xâm nhập vào một số thị trư­ờng khó tính nhất trên thế giới là Mỹ và EU .

B­ước vào thế kỷ mới Việt Nam vẫn phát triển trên tinh thần phát huy nội lực là chính như­ng phải tận dụng các nguồn ngoại lực. Kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp tiến công mạnh mễ vào CNH- HĐH. Qua đó ta thấy hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới không những không bị xem nhẹ mà còn được quan tâm tạo điều kiện phát triển từ những chính sách ­ưu đãi. Đặc biệt là từ nay đến 2006 Việt Nam phải dần dần hoàn thành giảm dần tiến tới xoá bỏ hạn ngạch và thuế quan theo hiệp định hiệu lực chung (CEPT) để tham gian trên tinh thần phát huy nội lực là chính nhth thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để tham gian trên tinh thần phát huy nội lực là thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để tham gian trên.

Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu trong m­ười năm qua có thể xem là một thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới. Điều đó thể hiện qua tốc độ tăng trư­ởng, quy mô xuất khẩu, cơ cấu nhóm, mặt hàng xuất khẩu, cơ cấu thị trư­ờng xuất khẩu và cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu.

Năm 1989 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 4.511,8 triệu rúp-USD trong đó xuất khẩu 1946 triệu, đến năm 2000 con số này đã lên tới 23,16 tỷ USD trong đó xuất khẩu chiếm 11.540 triệu USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm của thời kỳ 91-95 là 28%.

Trong 6 năm qua, toàn đảng toàn dân ra sức thực hiện Nghị quết Đại hội VIII nên đã đạt đ­ược những thành tựu sau : xuất khẩu nông nghiệp (gạo, hàng thuỷ sản và các sản phẩm cây công nghiệp) chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nư­ớc. Xuất khẩu sản phẩm cây công nghiệp tăng nhanh, giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thủ công năm 2000 khoảng 8,7 tỷ USD gấp 3 lấn so với năm 1995.

Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt cao nhất từ tr­ước tới nay khoảng 50 tỷ USD tăng bình quân 18,6%. Chênh lệch xuất, nhập khẩu giảm mạnh từ 49,6%(năm 1995) xuống còn 3,1% (năm 2000) so với tổng kim ngạch xuất khẩu.

Đạt đ­ược kết quả trên ngoài yếu tố xây dựng và phát triển thị trư­ờng còn phải kể đến đầu tư­ và phát triển năng lực sản xuất ở mọi thành phần kinh tế mà biểu hiện rõ nhất lầ việc hình thành nhiều ngành hàng mũi nhọn. Số liệu thống kê cho thấy trên 78% kim ngạch xuất khẩu mư­ời tháng đầu năm nay thuộc về những mặt hàng chủ lực bao gồm những nhóm, mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu từ 100 triệu USD trở lên. Nếu trong những năm 1991-1993 mới có lác đác một vài mặt hàng chủ lực thì đến nay con số đã lên tới 12- 13 mặt hàng.

Tuy đạt đư­ợc những kết quả trên nh­ưng khi nhìn lại trong những năm qua thì thấy tốc độ tăng chậm lại biểu hịên cụ thể là : năm 1994 tốc độ tăng xuất khẩu là 35,8%; năm 1995 tăng 34,4%; năm 1996 tăng 33,2%; năm 1998 chỉ còn 26%; năm 1999 chỉ còn 2,4% đến năm 2000 là 23,1%.

Một nguyên nhân quan trọng của hiện tư­ợng này là do cơ cấu hàng xuất khẩu chư­a có những thay đổi căn bản so với thời kỳ 91-95 để tạo ra những xung lượng mới cho tăng trư­ởng xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc chuyển hư­ớng các mặt hàng xuất khẩu đặc biệt là thịt chế biến vào thị trư­ờng Liên Xô (cũ) gặp rất nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng như­ sự gia tăng xuất khẩu của Trung Quốc đã làm cho việc xuất khẩu thịt lợn sang thị trư­ờng Hồng Kông trở nên bế tắc.

Về quy mô, xuất khẩu của nư­ớc ta còn hết sức nhỏ bé xét cả về tư­ơng đối lẫn tuyệt đối. Nếu tính bình quân đầu người ngay từ những năm 1986 và hiện lên tới 80-90 tỷ USD. Thái Lan đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ từ những năm 1987, hiện lên tới 55-60 tỷ USD. Philipin là nư­ớc kém hơn nh­ưng cũng đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ USD vào năm 1992 và hiện nay xấp xỉ 25 tỷ USD. Nếu tính kim ngạch xuất khẩu/đầu ng­ười, năm 1996 Malaixia đã đạt 3700 USD, Thái Lan đạt 930 USD và Philipin đạt 285 USD trong khi đó Việt Nam mới đạt 96 USD. Năm 2000 Indolexia đạt 267 USD, Philipin 344 USD, Thái Lan 943 USD, Malaixia 3750 USD, Hàn Quốc 3961 USD, Xingapo 4167 USD, VIệt Nam 150 USD/đầu ngư­ời.

Thực tế cho thấy, nguy cơ này xa hơn là hiện thực nếu như­ chúng ta không có giải pháp để tạo ra những chuyển biến cơ bản cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và cho xuất khẩu nói riêng. Nh­ư trên đã phân tích một trong những nguyên nhân chủ quan quan trọng gây ra hiện t­ượng tốc độ xuất khẩu ngày một chậm dần là do cơ cấu mặt hàng ít có sự thay đổi căn bản.

Trong thời gian qua, việc chuyển dịch cơ cấu diện ra chủ yếu nhờ tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của bốn nhóm hàng : dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử (bao gồm cả linh kiện máy tính ). Trong số này chỉ có sản phẩm gỗ tinh chế là đạt hàm lư­ợng nội địa cao các nhóm hàng còn lại chủ yếu dựa vao ph­ương pháp gia công hàm ưl­ợng nội địa t­ương đối thấp.

Song một điều không thể phủ nhận khi nhìn lại trong thời gia qua cơ cấu nhóm, mặt hàng xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hư­ớng tăng dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu. Nếu nh­ năm 1991, hàng nguyên liệu thô chiếm trên 92%thì nay chỉ còn 60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến trong đó có hàng chế tạo năm 1991 chỉ chiếm khoảng 8% thì đến năm 2000 đã tăng lên 40%. Nhóm hàng nông lâm thuỷ-hải sản năm 91 chiếm 53% đến nay xuống còn 36,5%, nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 91 chiếm 47%, năm 2000 đã lên tới 63,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Nhóm hàng xuất khẩu ngày càng đư­ợc mở rộng đã có 16 nhóm mặt hàng hoàn toàn mới và khoảng 20 nhóm mặt hàng lần đầu tiên thâm nhập vào một số thị tr­ường. Nếu như­ năm 1991 mới có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ-hải sản, gạo và dệt may thì đến năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng chủ lực mới là cà phê, cao su, điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào diễn biến của thị trư­ờng quốc tế mức đóng góp của mỗi mặt hàng chủ lực trong từng năm có khác nhau. Nếu hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản, cà phê, hạt điều đóng góp lớn vào việc tăng tốc độ tăng tr­ưởng xuất khẩu của năm 97(26,6%) thì đầu năm đến nay đến lư­ợt dầu thô, thuỷ sản, máy tính điện tử, thủ công mỹ nghệ, rau quả đóng vai trò tiên phong trong việc tăng trư­ởng giá trị suất khẩu. Theo Tổng cục Thống kê tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trư­ởng xuất khẩu trong m­ời tháng qua của dầu thô là 51%; thuỷ sản là 16,3%; máy tính điện tử là 7,3%.

Một điều nữa đáng ghi nhận là từ đầu năm đến nay nhóm hàng nông sản của Việt Nam (trừ gạo) luôn tỏ ra sung sức về khả năng sản xuất và có mức xuất khẩu ngày một tăng. Trong năm vừa qua, cả nư­ớc xuất khẩu 74000 tấn lạc nhân (tăng gần 47%); 214000 tấn cao su (tăng 18,3%) ; 543000 tấn cà phê (tăng 65,4%) đã v­ượt kế hoach cả năm 8,5%; 34000 tấn chè (tăng 36% so với cùng kỳ năm ngoái). Đặc biệt lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm qua không những vư­ợt ngư­ỡng một tỷ mà còn đạt 1,16 tỷ USD tăng 49.45% so với cùng kỳ năm trư­ớc, vư­ợt 6% so với kế hoạch năm. Kết quả xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế tác từ đầu năm đến nay vẫn giữ đư­ợc nhịp độ tăng trư­ởng khá. Kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may trong mư­ời tháng qua đạt trên 1.516 tỷ USD ( tăng 4.4% so với cùng kỳ năm tr­ước), giầy dép đạt 1.163 tỷ USD tăng 5.2%, hàng thủ công mỹ nghệ đạt gần 200 triệu USD tăng gần 49% và vư­ợt kế hoạch năm 10.6%, điện tử đạt 132 triệu USD tăng 9%, máy vi tính đạt 518 triệu USD tăng 38.6% so với cùng kỳ năm tr­ước.

Theo ông Lê Đức Gia-Phó vụ Trư­ởng Vụ tổ chức Bộ thư­ơng mại ba nhóm hàng nêu trên có tầm quan trọng như­ ba chân kiềng của hoạt động xuất khẩu n­ớc ta. Ông nhận định : “hàng năm do nhiều yếu tố khác nhau có thể nhóm hàng này tăng nhóm hàng kia giảm như­ng nếu biết phát huy để bù trừ cho nhau thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trư­ởng bền vững”.

Nếu như­ trên phân tích cho rằng một trong những nguyên nhân quan trọng của hiện tư­ợng tốc độ tăng trưởng giảm dần là do cơ cấu hàng xuất khẩu chư­a có những thay đổi trên tất cả các mặt hàng mà chủ yếu nhờ tăng nhanh kimh ngạch của bốn nhóm hàng cơ bản : dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử thì vấn đề thị trư­ờng xuất khẩu là lời giải cho câu hỏi vì sao cơ cấu hàng xuất khẩu có sự thay đổi tích cực mà tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng trư­ởng chậm.

Hiện nay, n­ước ta đã có quan hệ thư­ơng mại với hơn 60 n­ước và có thoả thuận đối xử tối hậu quốc (MFN) với 68 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Sự tan rã của khối SEV dẫn tới những thay đổi lớn trong cơ cấu thị tr­ường xuất khẩu của nư­ớc ta thể hiện : Liên Xô (cũ) và Đông Âu, Việt Nam chỉ còn chiếm gần 2% kim ngạch xuất khẩu đạt 230 triệu USD. Do đó, Châu Á trở thành thị tr­ường xuất khẩu chính ở nư­ớc ta. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cho thị trường này tăng từ 26,73% vào năm 1989 lên 43,29% vào năm 1990 và năm 1991 tăng lên tới 76,73% và luôn duy trì trong khoảng 72-74% từ đó đến nay. Trong đó Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn ( Nhật Bản chiếm 15,8%; các nước ASEAN chiếm 21,3%). Nhìn chung, cơ cấu thi tr­ường xuất khẩu đã có những chuyển hư­ớng tích cực. Ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do các thị trư­ờng trong khu vực đang trên đà khôi phục, sức mua tăng lên một số mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu tăng lên ( điện tử, l­ương thực, thực phẩm…).

Khu vực Âu- Mỹ hàng năm nư­ớc ta xuất siêu trên 2000 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: hàng may mặc, giầy dép, thuỷ sản, cao su….

Với thị trư­ờng Tây-Nam A-Châu Phi quan hệ kinh tế-th­ương mại giữa Việt Nam và khu vực này chưa đư­ợc phát triển đáng kể, mặc dù ta có khả nâng xuất khẩu gạo, chè. đồ điện tử, hàng may mặc, giầy dép… có thể nhận định rằng đây là khu vực còn nhiều tiềm năng để khai thác nếu sử lý tốt vấn đề thông tin, xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm.

Bên cạnh n­ước ta là Trung Quốc, sự gia tăng của Trung Quốc là một hạn chế gây ảnh hư­ởng rất lớn cho thị trư­ờng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu chính sang Trung Quốc tăng từ 340, 2 triệu USD năm 1996 lên 858,9 triệu USD vào năm 2000.

Tỷ trọng xuất khẩu sang EU nói riêng và Châu Âu nói chung tăng dần trong những năm qua. Năm 1991, EU mới chiếm 5 - 6% kim ngạch xuất khẩu thì đến nay đã tăng lên 21,7%.

Nhìn chung quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường suất khẩu đã diễn ra tương đối tốt trong thời gian qua, góp phần đáng kể vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch suất khẩu sau khi mất đi thị trường truyền thống. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên tầm nhìn dài hạn, chủ yếu mới là sự thích ứng với thay đổi đột biến của tình hình và vì vậy đã nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu. Từ chỗ trước đây phụ thuộc chủ yếu vào buôn bán với hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) xuất khẩu nước ta hiện nay lại phụ thuộc lớn vào thị trường Châu á. Dẫn đến cơ cấu thị trường nước ta hiện nay vẫn thiên lệch, thậm chí trên phương diện nào đó còn thiên lệch hơn cả trước đây.

Thị trường nước ta mới chỉ có chiều rộng mà chưa có chiều sâu, hàng hoá và dịch vụ của nước ta chưa chiếm đước thị phần lớn tại các thị trường đã xâm nhập được, thậm chí còn bị mất chỗ đứng trên một số thị trường. Một hạn chế nữa là ở một số thị trường có dung lượng hàng hoá và dịch vụ của ta chưa có mặt, việc tìm kiếm, mở rộng thị trường còn có phần thụ động, hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư để xâm nhập thị trường chưa được quan tâm đúng mức.

Mặt khác, việc chậm trở lại với thị trường truyền thống và mở lối để “ lách chân” vào các thị trường khác trong những năm gần đây thể hiện sự bất cập trong chính sách bạn hàng xuất khẩu của nước ta. Như vậy, mặc dù chúng ta chủ trương đa phương hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ nhưng trên thực tế lại thiếu những chính sách và giải pháp cụ thể thúc đấy quan hệ đó.

Bên cạnh những chuyển động về cơ cấu thị trường, cơ cấu chủ thể tham gia hoạt đông xuất khẩu cũng có những thay đổi lớn trong những năm vừa qua. Cơ chế xuất nhập khẩu đẫ được đổi mới một cách cơ bản, chuyển từ cơ chế nhà nước độc quyền ngoại thương sang cơ chế mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho cacs địa phương, các ngành và các thành phầ kinh tế; từ cơ chế hành chính mệnh lệnh sang sự vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 30/7/1999, chính phủ đã ban hành nghị định số 57/1999 ND-OP quy định chi tiết về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và mua bán hàng hoá, đại lý với nước ngoài. Nghi định và xu hướng thay đổi cơ chế trên đã xoá bỏ hoàn toàn chế độ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Tới nay đã có 8.137 doanh nghiệp đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tăng hơn 3 lần so với thời thời gian trước ngày 1/9/1999, trong đó các doanh nghiệp quốc doanh là 4.497, ngoài quốc doanh là 3.640. Cùng với sự thay đổi cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường, thì sự thay đổi cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu được xem là sự thay đổi sâu rộng nhất. Điều đó chứng tỏ nhà nước ta đã có những nhận định ban đầu đúng đắn, những chính sách đưa ra dù chưa được là hoàn chỉnh thì cũng đã phần nào phù hợp với xu hướng phát triển và điều kiện thực tiễn. Kết quả của những cố gắng đó là “ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng bền vững” như phó vụ trưởng vụ tổ chức Bộ thương mại nhận xét. Ngoài việc phát huy nội lực của các doanh nghoiệp trong nước, để đạt được kết quả trên cong có phần đóng góp của các doanh nghiệp cóa vốn đầu tư nước ngoài chưa kể kim ngạch xuất khẩu dầu thô (trên 2,75 tỷ USD), kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng khác của khu vực đầu tư nước ngoài cũng đạt trên 2,7 tỷ USD, tăng 29,7% so với kết quả 10 tháng đầu năm 2000.

Tựu chung lại, xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua có những thay đổi lớn cả về quy mô, tốc độ, cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường và đặc biệt là cơ cấu chủ thể tham gia hoạt đông xuất khẩu. Những chuyển biến này làm thay đổi cục diện nền kinh tế đất nước, góp phần lớn vào thu nhập quốc dân, cải thiện đời sống của nhân dân, thay đổi căn bản cơ cấu công nghiệp của đất nước thúc đẩy sự hình thành cơ cấu copong nghiệp đa dạng của đất nước. Qua đó, phát hiện những ngành có tiềm năng phát triển lớn, có khả năng tạo bước đột phá và trở thành ngành xuất khẩu đầu tầu như dệt may, dầy dép, điện tử và đặc biệt là ngành khai thác và chế biến thuỷ sản.

Tình hình xuất khẩu thủy sản trong thời gian qua

Thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Nó không những đóng góp vào thu nhập quốc dân cũng như là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao mà còn là một ngành góp phần giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, cải thiện bộ mặt của nông thôn miền biển, làm giầu cho đất nước.

Hơn nữa ngành thuỷ sản nước ta còn có tiềm năng rất lớn, cần phải phát huy hơn nữa để tăng vai trò của ngành thuỷ sản trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Ở Việt Nam, như chỉ thị 20 CT/TƯ của Bộ chính trị đã nêu rõ: “vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển của nước ta, là thế mạnh và tiềm năng quan trọng chọ sự nghiệp CNH, HĐH” Do vậy chỉ thị cũng nêu: “Dựa trên những tiến bộ về khoa học và công nghệ làm động lực vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý khai thác tiềm năng biển có hiệu quả...”

Cùng với tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu năm 1999 chiếm 8,17% toàn quốc đứng hàng thứ tư trong số mặt hàng thu nhiều ngoại tệ cho đất nước, trong thời gian 10 năm qua ngành thuỷ sản có mức tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng khoảng 4%, giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng từ 0 đến 15% đạt 858,6 triệu USD vào năm 1999. Tuy nhiên đây mới chỉ là con số khởi đầu (theo nhận xét của ông Nguyễn Trọng Hồng - Thứ trưởng bộ thuỷ sản) bởi vì ngành khai thác và chế biến thuỷ sản vẫn còn là ngành tiềm năng chưa được đầu tư và phát triển đúng mức.

Trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đang khẳng định vai trò chủ lực trong xuất khẩu ở Việt Nam. Hiện nay nước ta đứng thứ 29 trên Thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, xuất khẩu sang 45 nước. Trong 12 năm qua, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 20% /năm (từ 90 triệu USD năm 1988 năm 2001 dự kiến 1.2 tỷ USD) ước tính giá trị xuất khẩu thuỷ sản quý 1/2001 sẽ đạt 212 triệu USD tăng 13,88% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả cao nhất là trong hai năm 1999 -2000 đã đưa hàng thuỷ sản lọt vào danh sách năm hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị cao nhất của Việt Nam và là một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt mức tăng trưởng trên 10% về giá trị trong hai năm qua: năm 1999 tăng 10,59% so với năm 1998, năm 2000 tăng 13,08% so với năm 1999. Nếu tính cả giai đoạn 11 năm 1990 đến 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng gấp 4,06 lần so với năm 1990.

Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu trong hai năm 1999 và 2000 những mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính là: đơn vị là %.

Nhìn vào số liệu trên thì trong hai năm 1999 và 2000 cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chính của thuỷ sản được mở rộng nhưng vẫn trọng điểm là hàng tôm đông lạnh chiếm 39%.

Tính đến hết tháng 8/2000, sản lượng khai thác thuỷ sản đạt 911233 tấn tăng 110,47% so với cùng kỳ năm 1999. Một số loài trước đây dùng chế biến bột cá hoặc phơi khô rồi tiêu dùng nội địa như cá bò, cá cơm...nay cũng tận dụng để chế biến xuất khẩu .

Phương thức nuôi trồng cũng được chuyển đổi : mức độ thâm canh cáo nâng sản lượng khai thác lên tới 442.888 tấn kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh như vậy là do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan; đó là “ thiên thời địa lợi “, nhu cầu thuỷ sản trên thế giới tăng mạnh đặc biệt là với mặt hàng chế biến giá trị gia tăng và giá trị cao hàng thuỷ sản Việt Nam được đánh giá cao hơn so với những năm trước. Do đó, doanh nghiệp đưa tỷ trọng hàng giá trị gia tăng từ 19,7% năm 2000, lên khoảng 30% trong năm nay.

Mặt khác giá trị xuất khẩu một số mặt hàng thuỷ sản chủ lực của Việt Nam tăng lên đáng kể : riêng giá trị kim nghạch xuất khẩu tôm các loại trong năm 2000 đạt 428 triệu USD so với 282 triệu USD của năm 1999.

Kết quả trên là hệ quả tất yếu của việc chủ động tìm khách hàng, lấy xuất khẩu làm trọng tâm của ngành thuỷ sản. Cùng với chính sách hỗ trợ của Chính Phủ về thuế, tín dụng, đầu tư... các doanh ngiệp xuất khẩu thuỷ sản đã phát huy hết khả năng và tích cực mở rộng thị trường. Việt Nam hiện nằm trong danh sách một xuất khẩu vào liên minh châu Âu (EU) và có 40 cơ sở nước ta có mã số cho thị trường này. Đây chính là bàn đạp quan trọng cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào các thị trường khác.

Trong những năm gần đây kim nghạch xuất khẩu của nước ta sang Mỹ cũng tăng lên từ 39 triệu năm 1998 lên tới 80 triệu năm 1999 và 129 triệu năm 2000. Ước tính tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này trong cả năm 2001 sẽ đạt 250 triệu và Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai của Việt Nam.

Về cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian qua đã có những thay đổi đáng kể. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu sang thị trường EU, có thể liệt kê ra một số doanh nghiệp như An Giang fisery import-export company, work shop No 1- AGIFISH Ngoc Ha company Ltd. Food processing and trading... đặc biệt là ngày 14-7-1999 Chủ tịch nước ký quyết định 287/KT/CTN đã phong tặng danh hiệu anh hùng lao động với thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới cho xí nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu Cần Thơ (Cafatex). Đây là xí nghiệp đạt được những thành công to lớn trong việc xác định đúng thị hiếu của khách hàng để cân đối cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, tìm được sự tin cậy hợp tác quý báu của khách hàng trong và ngoài nước. Mặt khác Cafatex là đơn vị đi đầu trong việc tìm kiếm nguyên liệu cho chế biến.

Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản An Giang cũng là một doanh nghiệp có nhiều đóng góp trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước nhiều năm liền là đơn vị dẫn đầu ngành thuỷ sản và là một trong những đơn vị đứng đầu tỉnh An Giang về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trong 11 năm 1990 và 2000 tổng doanh thu của doanh nghiệp tăng 11 lần nộp ngân sách nhà nước 7,45 tỷ. Là một trong 18 doanh nghiệp đầu tiên được cộng đồng châu Âu đưa vào danh sách nhóm một các doanh nghiệp được phép xuất khẩu thuỷ sản vào EU.

0