Aleksandr Sergeevich Pushkin Александр Сергеевич Пушкин

Aleksandr Sergeyevich Pushkin (Александр Сергеевич Пушкин, 1799-1837) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga, ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ 19 bởi nhiều cống hiến trong sự đa dạng hoá ngôn ngữ văn chương. Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (26 tháng 5 theo lịch cũ) tại thành phố Moskva trong một gia đình quý tộc Nga có nguồn gốc từ thế kỷ 12. Cha của Pushkin là hậu duệ của dòng dõi gia đình Boyar cũ - tước hiệu cao cấp nhất trong tầng lớp quý tộc của Nga và Romania thời xưa, nhưng lại luôn cảm thấy xấu hổ vì điều này, và rất ít quan tâm đến những khái niệm như gia đình, thu nhập và giá cả nông sản, mà chỉ sống trong cảnh thảnh thơi, nhàn nhã và vô lo. Mẹ Pushkin thuộc dòng dõi của Abram Petrovich Gannibal, một người nô lệ da đen, nhờ thông minh xuất chúng và có những đóng góp lớn về quân sự, hàng hải cho nước Nga, đã được Pyotr Đại đế nhận làm con nuôi. Sáu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum Hoàng gia, tại Tsarskoe Selo (Hoàng Thôn, nay là thị trấn Pushkin) gần kinh đô Sankt-Peterburg. Thời gian theo học tại đây ông đã chứng kiến cuộc chiến tranh giữa quân đội Nga hoàng với quân Pháp của Napoléon I (1812). Ông có bài thơ nổi tiếng về chủ đề này - Hồi ức ở Hoàng Thôn (Воспоминание о Царском Селе, 1815). Bài thơ này đã được nhà phê bình văn học Nga nổi tiếng thời bấy giờ là Gavrila Romanovich Derzhavin (Гаврил Романович Державин) coi là một tác phẩm kiệt xuất và đã tôn vinh Pushkin, khi đó mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga. Sau khi tốt nghiệp Lyceum, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lúc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nông nô tại Nga. Thời gian này ông cho ra đời những bài thơ mang tính chính trị như Gửi Chaadaev (К Чаадаеву, 1818), Gửi N. Ya. Plyuskova (Н. Я. Плюсковой, 1818), Làng quê (Деревня, 1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiên của mình - Ruslan và Lyudmila (Руслан и Людмила) và ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cách cũng như chủ đề, mặc dù cũng phải chịu sự công kích dữ dội từ phía chính quyền. Mùa xuân 1820, do những bài thơ cách mạng, thống đốc Sankt-Peterburg, bá tước M. Miloradovich, đã quyết định đày Pushkin tới Sibir. Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (Nikolai Mikhailovich Karamzin, Pyotr Yakovlevich Chaadayev, Fyodor Nikolayevich Glinka), cuối cùng ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn là bị trục xuất khỏi thành phố Sankt-Peterburg vô thời hạn. Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đã đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Krym, Moldova, Kiev. Trong thời gian này ông vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới có ảnh hưởng rất lớn tới văn học Nga thế kỷ 19, như Người tù binh Kavkaz (Кавказский пленник, 1822), Gavriiliada (Гавриилиада, 1821), Anh em lũ cướp (Братья разбойники, 1822), Đài phun nước Bakhchisaraysky (Бахчисарайский фонтан, 1824). Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết tiểu thuyết bằng thơ, kiệt tác Yevgeny Onegin (Евгений Онегин). Tháng 7 năm 1824, với đơn xin ân xá, Pushkin được chính quyền cho phép về ở khu trang trại Pskov tại vùng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soát của gia đình. Tại Mikhailovskoe ông đã sáng tác những tác phẩm lịch sử như vở kịch Boris Godunov (Борис Годунов, 1825), Với biển cả (К морю, 1826), trường ca Những người Digan (Цыганы, 1827). Năm 1825, trong lần sang thăm trang trại láng giềng, Pushkin đã gặp nàng Anna Kern, người tạo cho ông cảm hứng để sáng tác bài thơ nổi tiếng Gửi K . Cuối năm 1825 đầu năm 1826 kết thúc chương năm và sáu của Evgeny Onegin , mà lúc đó Puskin coi là đoạn kết cho phần một của tác phẩm. Cuối năm 1825, thông qua một số viên chức có thiện chí, Pushkin đã được tiếp cận Nga hoàng Nikolai I để đệ đơn xin ân xá và được Nga hoàng chấp thuận. Tuy nhiên sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tháng Chạp năm 1825 tại Sankt-Peterburg, chính quyền đã xem xét lại tất cả các ấn phẩm chống đối chính quyền của Pushkin trước đó và quyết định buộc ông bị quản thúc tại gia và có chính sách kiểm duyệt nghiêm khắc các tác phẩm của nhà thơ. Pushkin đã chuyển về Moskva sống trong thời gian này. Năm 1831 được đánh dấu bởi một sự kiện rất quan trọng trong sự nghiệp của Pushkin, ông đã có buổi gặp gỡ với Nikolai Vasilyevich Gogol, một nhà văn Nga nổi tiếng khác. Cả hai nhanh chóng trở thành bạn thân và luôn hỗ trợ nhau trong hoạt động nghệ thuật. Puskin đã có ảnh hưởng lớn tới những nhân vật trong các tác phẩm châm biếm phê phán hiện thực của Gogol. Cùng năm 1831, Pushkin kết hôn với người đẹp Natalia Goncharova, người đã đem lại cho ông cảm hứng sáng tác lớn lao. Ông hoàn tất chương Bức thư của Onegin trong tác phẩm Evegeny Onegin và cũng là chương kết của công trình vĩ đại mà nhà thơ đã mất 8 năm để thực hiện. Tháng 11 năm 1833, Puskin trở lại Sankt-Peterburg, và cảm thấy cần phải có những thay đổi lớn trong cuộc sống, ông không muốn bị kìm kẹp trong bốn bức tường do chế độ quản thúc. Nhờ sự sủng ái của Nga hoàng Nikolai I, đầu năm 1834 chế độ quản thúc đối với Pushkin được nới lỏng, tuy nhiên các tác phẩm thơ ca của ông vẫn phải có sự đồng ý của Sa hoàng mới được phát hành. Do vậy hoàn cảnh kinh tế của nhà thơ không được thuận lợi, Pushkin phải đăng ký vào một chức vụ thư lại trong viện biên sử của Sa hoàng. Thời kỳ này, Puskin chuyển hướng sang viết văn xuôi. Ông sáng tác truyện vừa như Con đầm bích (Пиковая дама), tiểu thuyết như Dubrovski (Дубровский, 1832-33), Con gà trống vàng , Người da đen của Pyotr Đại đế (không hoàn thành)... Cùng với những người bạn, Pushkin đã thành lập tờ tạp chí Người đương thời (Современник). Nhiều tác giả nổi tiếng của Nga thời bấy giờ như Aleksandr Ivanovich Turgenev, N.V. Gogol, V.A. Zhukovski, P.A. Vyazemski đã ủng hộ bằng cách gửi những tác phẩm mới nhất của mình tới cho tạp chí này. Tuy nhiên, độc giả Nga khi đó chưa quen với những bài viết mang tính phê phán hiện thực sâu sắc đã không hưởng ứng tạp chí Người đương thời. Số lượng độc giả quá ít khiến ban biên tập lâm vào tình thế rất khó khăn, họ không có đủ tiền để trang trải cho việc in ấn và thù lao cho cộng tác viên. Hai số cuối của tạp chí có đến quá nửa là sáng tác của Pushkin, phần lớn là để vô danh. Tiểu thuyết Người con gái viên đại uý (Капитанская дочка) chính là được in trên tạp chí này. Vợ của Pushkin - Natalia Goncharova, là một phụ nữ đẹp và quý phái vì vậy luôn có rất nhiều người ái mộ, trong số đó có cả Nga hoàng Nikolai I. Trong khi đó Puskin, do nguồn gốc châu Phi của mình, lại có một bề ngoài không mấy bắt mắt. Điều này làm cho Puskin rất khó chịu và không ít lần cảm thấy bực bội. Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ mình với Georges d’Anthès, một sĩ quan kỵ binh trong quân đội Sa hoàng, Puskin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ súng đã kết thúc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đã bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đó – ngày 10 tháng 2 năm 1837 (29 tháng một trong lịch Julian). Di sản văn chương của Pushkin rất phong phú, gồm cả thơ ca, kịch, sử thi, tiểu thuyết. Aleksandr Sergeyevich Pushkin (Александр Сергеевич Пушкин, 1799-1837) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga, ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ 19 bởi nhiều cống hiến trong sự đa dạng hoá ngôn ngữ văn chương. Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (26 tháng 5 theo lịch cũ) tại thành phố Moskva trong một gia đình quý tộc Nga có nguồn gốc từ thế kỷ 12. Cha của Pushkin là hậu duệ của dòng dõi gia đình Boyar cũ - tước hiệu cao cấp nhất trong tầng lớp quý tộc của Nga và Romania thời xưa, nhưng lại luôn cảm thấy xấu hổ vì điều này, và rất ít quan tâm đến những khái niệm như gia đình, thu nhập và giá cả nông sản, mà chỉ sốn… Phỏng vấn dịch giả Thuý Toàn Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 09/04/2007 16:55 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 20/06/2008 14:12 Tháng 10 năm 1991, tôi đã bỏ 500.000 đồng in một tập thơ nói về nước Nga để mong mọi người hiểu và yêu nước Nga đúng như những gì xứ sở này đã có”. Dịch giả Thuý Toàn tâm sự. Thuý Toàn tuổi Hổ, sinh năm 1938. Ông nói rằng mình “đã là ông già 70, tóc bạc rồi”. Nhưng gương mặt ông vẫn tràn đầy nhiệt huyết. Vẫn thoáng chút hồn nhiên và thơ trẻ như thể một phần tâm hồn Nga, tính cách Nga đã ở lại với nhà dịch giả này mãi mãi. “Thiên đường mơ ước” Người đầu tiên vẽ hình ảnh nước Nga vào trái tim Thuý Toàn là nhạc sĩ Phạm Tuyên - con trai của Phạm Quỳnh. Lúc ấy Thuý Toàn 12 tuổi, là thiếu sinh quân ở chiến khu Việt Bắc, còn Phạm Tuyên là đại đội trưởng, kiêm giáo viên văn của trường. Những câu trích trong tác phẩm: “Thời gian ủng hộ chúng ta” của Êrenbua (bản dịch của Thép Mới) qua giọng đọc rất truyền cảm của Phạm Tuyên đã khiến ông thuộc lòng đến tận bây giờ: “Lòng yêu nước bắt đầu từ những vật tầm thường nhất. Yêu cái cây trồng ở trước nhà. Yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông hay vị thơm chua mát của trái cây mùa thu”. Vài ba lần, các Thiếu sinh quân lớp Thuý Toàn được sang bên kia biên giới Trung Quốc tham dự Tuần lễ “Hữu nghị Việt - Trung - Xô”. Nhìn những thiếu nữ Nga nắm tay nhau nhảy múa và hát bài: “Nhân dân Liên xô vui hát trên đồng hoa”, trong đầu các học sinh đầy lý tưởng lãng mạn lúc đó, nước Nga càng là thiên đường mơ ước. “Chúng tôi đã truyền tay nhau đọc từng đoạn của cuốn sách ‘Thép đã tôi thế đấy”. Những đoạn nói về tình yêu của Paven và Rita đã khiến chúng tôi rất ngưỡng mộ”. Trong những đêm mùa đông Việt Bắc bị cái đói giày vò, cậu thiếu sinh quân Thuý Toàn đã ru mình vào giấc ngủ bằng hình ảnh thiên đường về nước Nga xa xôi. Rồi chuyến tàu xuyên qua Trung Á cũng đã đưa cậu học trò lãng mạn tới nước Nga. Lúc đó Thuý Toàn 16 tuổi, được chọn đi học tiếng Nga cùng 99 thanh niên khác để sau này trở về làm phiên dịch. “Tàu qua xa mạc Xiberi 8 ngày, thật lạ lẫm. Dọc đường rất nhiều người dân Nga sắp từng hàng dọc đón chào nồng nhiệt, trẻ em cầm hoa trên tay, có người già cầm quả táo trao. Ở Matxcơva cũng vậy, rất nhiều người Nga vây quanh học sinh Việt. Nước Nga khi chúng tôi đến là mùa đông nhưng trong lòng mỗi người, thật ấm áp”. “Tôi đã dịch một bài thơ PusKin 30 năm mới xong” Dù phải học tiếng Nga qua trung gian tiếng Trung, tiếng Pháp vì cô giáo không hiểu tiếng Việt và học trò không biết tiếng Nga nhưng sang năm học thứ 2, Thuý Toàn đã có thể dịch những mẩu chuyện nho nhỏ dành cho trẻ em gửi đăng ở báo “Người giáo viên nhân dân”. Thuý Toàn đặc biệt thích viết những bài thơ, mẩu chuyện nhỏ thiếu nhi bằng tiếng Nga. Bao thế hệ trẻ em Việt đã hát “Mèo con đi học...” và “Chỉ có một mà thôi”: Trên trời cao có muôn vàn ánh sao...” nhưng ít người biết lời bài hát là bản dịch của Thuý Toàn. Khi 100 học sinh ấy học xong phổ thông, 19 người đã được giữ lại để tiếp tục học sâu hơn về ngôn ngữ ở trường đại học. Thuý Toàn là một trong những người may mắn ấy. “Buổi sáng mùa đông” là bài thơ đầu tiên của Puskin mà Thuý Toàn tiếp cận nhưng phải 30 năm sao ông mới dịch xong. “Hôm đó, cũng là buổi sáng mùa đông. Chúng tôi được cô giáo đưa ra ngoại thành chơi. Đập vào mắt chúng tôi là mùa đông Nga hoang sơ, đẹp một vẻ đẹp lạ lùng. Những lùm cây lúp xúp. Những cánh đồng nhấp nhô... Cô giáo đã đọc bài thơ “Buổi sáng mùa đông” bằng giọng rất truyền cảm. Cảm xúc trào dâng trong lòng, tối hôm ấy, tôi đã tra từ điển để dịch ra tiếng Việt. Nhưng không thể dịch được”. Sau này, dù đã dịch được nhiều bài thơ khác của Puskin nhưng ông vẫn không thể dịch trọn vẹn bài thơ này. “Hiểu được nghĩa, cái thần, cái hồn nhưng tìm được từ thích hợp để chuyển thể, thật khó”, ông giải thích. “Hãy hiện lên như ngôi sao chói lọi Miền Bắc phương chào buổi sáng Bắc phương... Nắng sớm gọi, tuyết tưng bừng rực rỡ Trải mênh mông như tấm thảm tuyệt vời Như trong xanh thăm thẳm của vòm trời... Đến năm 1987, vào một buối tối mùa đông tại Việt Nam, ông mới dịch được trọn vẹn bài thơ này. Và hôm nay đây, khi nghe ông đọc lại từng câu, càng thấy nỗi nhớ mùa đông nước Nga trong ông - và cả những người của thế hệ ông - da diết đến chừng nào. Khi còn là sinh viên năm thứ 4, Thuý Toàn đã có những bản dịch thơ Puskin gửi về nước cho Nhà xuất bản Văn học. Bản thảo chép tay rất đẹp của người yêu - là bạn học của ông lúc đó và là người bạn đời của ông bây giờ - đã khiến NXB tưởng Thuý Toàn là con gái. “Hồi đó, chúng tôi luôn thấy mình và những nhà thơ Nga có điều gì đó thật đồng điệu. Một không khí sống, bầu nhiệt huyết hừng hực, lòng yêu nước và khát vọng tự do... Thêm nỗi buồn man mác ẩn giấu ở đâu đó trong những câu thơ thể hiện đặc trưng của tâm hồn Nga và những cung bậc tình yêu được thể hiện một cách chân thành và dữ dội...” Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu Trước mắt anh em bỗng hiện lên Như hư ảo mong manh vụt biến Như thiên thần sắc đẹp trắng trong... Nhiều câu thơ Puskin bất hủ như thế qua bản dịch của Thuý Toàn đã ở lại với rất nhiều người Việt. Nhưng Thuý Toàn nói rằng ông không phải là người Việt Nam dịch thơ Puskin nhiều nhất, tổng cộng có 50 bài. “Nhưng tại sao mỗi khi nhắc đến Puskin, người ta lại nhắc đến “dịch giả Thuý Toàn”? “Bởi vì tôi đã dịch như thể rút ruột rút gan của mình. Có lẽ thế?”. Có thể điều Thuý Toàn cảm nhận về nước Nga, văn học Nga nói chung và Puskin nói riêng có chỗ còn phải bàn lại nhưng điều không bao giờ có thể phủ nhận được là những gì ông đã làm là kéo gần người Việt với tâm hồn Nga. “Đừng bi kịch hoá nước Nga” Đến năm 1961, Thuý Toàn về nước, mãi đến năm 1976 mới có dịp quay lại Nga. Từ năm 1976 đến năm 1980, Thuý Toàn được trở lại Nga thường xuyên. Ông nhớ nước Nga và khát khao quay trở lại đó đến nỗi khi đã là Phó giám đốc NXB Văn học, ông vẫn sẵn sàng làm phiên dịch ngắn ngày nếu Bộ Văn hoá yêu cầu. Nhờ những chuyến đi đó mà ông thấy được nước Nga trong những bước chuyển âm thầm và những dự báo cho câu chuyện đau lòng năm 1991. Một nước Nga không giống như bức tranh màu hồng mà chàng thanh niên Thuý Toàn chứng kiến những năm năm mươi của thế kỷ 20. - Khi biến cố 1991 xảy ra, ông có cảm giác thế nào? - Năm 1980, tôi đã được chứng kiến tại những cửa hàng lớn cửa hàng lớn ở Matxcơva, từng đoàn, từng đoàn phụ nữđi ủng, mặc áo lông trùm khăn kín đầu đến từ nông thôn, xếp hàng mua từng bao tải thịt lợn, bánh mỳ đem về. Những thứ đó, lẽ ra những người nông dân không thiếu. Có lẽ vì thế mà khi biến cố 1991 xảy ra, tôi không thấy bất ngờ. Tháng 10 năm đó, tôi đã bỏ tiền túi ra để in một tập thơ - 500.000 đồng lúc đó là rất lớn - tập hợp những bài thơ của nhiều tác giả Nga. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm để nói với lòng mình rằng: ta đã hiểu đúng và yêu nước Nga đúng như những gì nó có. Và cũng mong muốn người ta hiểu và chia sẻ như thế. - Ông có thể đọc một bài thơ thật tiêu biểu trong tập thơ 25 bài đó không? Giọng đọc của ông vang lên, trầm hùng và buồn da diết. Như nỗi nhớ và tình yêu da diết ở trong ông. Đó là bài thơ của một tác giả không tên tuổi được ông dịch vào đúng thời gian nước Nga đầy biến động - năm 1991. Ở nước Nga không có bầu trời nào mà không có mây Ở nước Nga không có bánh mỳ nào mà không có mồ hôi Ở nước Nga không có ngôn từ nào mà không có ẩn dụ Ở nước Nga không có hồ nước nào mà không có đầm lầy Không có rừng nào ở nước Nga mà không có thần rừng Không có ngôi nhà nào ở nước Nga mà không có gia thần Không có ngày hội nào ở nước Nga mà không quá chén Không có hạnh phúc nào ở nước Nga mà được cho không... Năm 1993, qua lại Nga, gặp cảnh nhiều người Nga mệt mỏi đi bán rong từ bánh xà phòng, hộp kem đánh răng, mấy thước vải, Thuý Toàn đã buồn như thể chứng kiến cảnh người dân của đất nước mình nghèo đói. “Thế nhưng thật lạ lùng, một năm sau qua lại đã không còn điều ấy nữa. Nước Nga có những điều đặc biệt không thể giải thích nổi... “Không thể đo nước Nga bằng dòng thước Nước Nga có một điều đặc biệt Hãy đặt niềm tin vào nước Nga” - tôi thấy mấy câu thơ đó thật chí lý. Cũng có thể vì thế mà tôi rất bực khi vào những thời điểm khó khăn, nhiều người lại cứ bi kịch hoá nước Nga”. - Thế còn mỗi lần nước Nga xảy ra động đất, khủng bố, chìm tàu ngầm, tâm trạng của ông thế nào? - Thấy như người thân mình bị thương tổn vậy. Tôi không có cảm giác như nhiều người; rằng là nước Nga nguy mất rồi. Đừng bi kịch hoá nước Nga. Một đất nước lớn như thế, đang trải qua những sự thay đổi lớn lao như thế. Sự thương tổn là điều tất nhiên thôi. Xin đừng bi kịch hoá nước Nga. Ông vẫn nói bằng nhiệt huyết của Thuý Toàn 16 tuổi, lần đầu tiên đặt chân đến nước Nga. Lương Thị Bích Ngọc (thực hiện) Nguồn: http://www.vnn.vn/psks/nhanvat/2004/11/342692/ "Xin anh đừng hỏi vì sao Tên anh em để lẫn vào trong thơ..." ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Pushkin, tượng đài Thi ca Nga Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 20/06/2008 14:05 Đã sửa 4 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 24/10/2009 12:45 Tác giả: Thuỵ Anh Ở Matxcơva, trên đại lộ Tverskaia, một trong những đại lộ chính của thủ đô nước Nga, sừng sững tượng đài nhà thơ Nga vĩ đại Aleksandr Sergeevich Pushkin. Pushkin, “mặt trời của thi ca Nga”* , người đứng đó, trầm mặc, kiêu hãnh. Cho dù thời thế đổi thay, lòng người thay đổi, thì dưới chân tượng đài đá xám này chưa bao giờ thiếu những đóa hoa tươi. Gần hai thế kỷ qua đi, những vần thơ khẳng khái, mê say ngày nào đã làm nên một tượng đài khác nữa tưởng nhớ nhà thơ – tượng đài vững chắc trong lòng người – tượng đài thi ca “cao hơn cả trụ thờ Aleksandr đệ Nhất”. Pushkin sinh ngày 6-6-1799 tại Matxcơva, trong một gia đình không giàu có nhưng danh giá. Dòng họ Pushkin là dòng họ có tiếng, như sau này chính nhà thơ đã nói: “Tên tuổi tổ tiên tôi thấp thoáng trong lịch sử…”. Tự hào về dòng dõi quý tộc của mình, nhà thơ tương lai cảm nhận về lịch sử bằng tình cảm trân trọng sâu sắc và tìm hiểu lịch sử Nga như một sự nghiệp của nhân dân vĩ đại, bắt nguồn từ những giá trị nhân bản sâu xa và tiếp nối đến muôn đời. Điều ấy sau này thể hiện rất rõ trong các tác phẩm văn học sử của ông như “Người da đen của Piotr đệ Nhất”, "Bi kịch Boris Godunov" (1825), "Truyện của Belkin" (1830), "Người trạm trưởng", "Trường ca kỵ sĩ bằng đồng" (1833), và rất nhiều thi phẩm khác. Thời ấu thơ, trong gia đình, cậu bé Sasha (tên thân mật của Aleksandr) không được cha mẹ để tâm cho lắm bởi cậu tỏ ra khá .. lập dị, hơi khó hiểu với những thiên hướng thi sĩ của mình. Chỉ có hai người phụ nữ gần gũi cậu và là hai người để lại ảnh hưởng sâu sắc đối với cuộc sống nội tâm của nhà thơ tương lai – đó là bà ngoại Maria Alekseevna Gannibal (1745-1818) và bà vú Arina Rodionovna Iakovleva (1758-1828). Những ngày ấu thơ thân ái, khi cậu bé được cuộn mình trong chiếc giỏ khâu lớn của bà ngoại, được nghe những bài hát cổ xưa nức nở trong chiều đông tuyết giá mà bà vú Arina thường hát bằng giọng khe khẽ buồn rầu… đã để lại trong tâm hồn thơ trẻ một thế giới đầy nhạc và thơ. Nhiều thi phẩm của Pushkin sau này viết về thiên nhiên Nga cũng thấm đẫm một nỗi buồn trong sáng, xuất phát từ nỗi sầu dịu dàng trong những bài dân ca cậu nghe thời nhỏ ấy: Trên con đường mùa đông vắng vẻ Cỗ xe tam mã băng đi Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ Dịu dàng khắc khoải lòng quê Bài ca của người xà ích Có gì phảng phất thân yêu: Như niềm vui mừng khôn xiết Như nỗi buồn nặng đìu hiu … Sầu lắm. Nhina, đường xa vắng Ngủ quên, bác xà ích lặng im Nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng (Con đường mùa đông – 1826) Trong bài “Buổi tối mùa Đông”, nhà thơ đã âu yếm nói với bà vú già – “người bạn lòng tri kỷ” của mình: Ngoài trời đầy gió bão Tuyết lốc quay mịt mờ Khi gầm như mãnh thú Khi gào như trẻ thơ Hỡi bạn lòng tri kỷ Những ngày thơ cơ hàn Rượu đâu? Ta mang cốc, Rượu vào nỗi buồn tan.. Hát con nghe khúc hát Có con chim sơn tước Sống lặng lẽ ngoài khơi Hát cho con khúc hát Có cô gái sớm mai Ra ngoài trời quẩy nước (Buổi tối mùa đông, 1825) Còn một người nữa cũng đóng góp phần quan trọng trong sự hình thành một trái tim nhạy cảm của nhà thơ – đó là người chú họ xa, Nikita Kozlov, người thường cùng cậu lang thang trên các đường phố Matxcơva khi cậu đôi chút lớn lên. Ba người này là những người nuôi dưỡng hồn Nga trong Pushkin, đối lập lại với kiểu giáo dục quý tộc của gia đình thời ấy là .. quẳng cậu bé cho hết gia sư này đến gia sư khác người Pháp mà cậu không mấy thích thú. Những tác phẩm đậm chất Nga của Pushkin về sau hẳn đã bắt nguồn từ thuở thiếu thời êm ấm ấy. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nga Nikolai Gogol (1809-1852) đã từng thốt lên: “Pushkin là một hiện tượng đặc biệt, và có thể là một hiện tượng duy nhất của hồn Nga. Trong con người này, thiên nhiên Nga, tâm hồn Nga, tiếng Nga, tính cách Nga được phản ánh một cách trong sáng, bằng một vẻ đẹp trong sáng, tưởng như một bức tranh phong thủy hiện lên trên nền một tấm kính trong veo”… Những thi phẩm xuất phát từ hồn Nga như “Kazak”, “Nàng niên cá”, “Những người di-gan”, “Evgheny Onegin”… là những ví dụ hùng hồn nhất cho nhận xét này. Đương nhiên, cũng phải nói rằng, Pushkin đã may mắn được sinh ra trong một gia đình yêu văn thơ. Cha mẹ cậu thường xuyên tiếp đón những nhân vật có tiếng trong làng văn nghệ thời bấy giờ, như Karamzin , Derzhavin, Bogdanovich, Krylov… Năm lên 8, Pushkin đã viết những vần thơ đầu tiên và thậm chí viết cả những bài thơ trào phúng bằng tiếng Pháp để chọc giận những gia sư người Pháp của mình! Nhưng cậu chỉ thực sự nghiên cứu thơ ca có hệ thống và sâu sắc từ khi nhập học vào trường Litsee được mở ở Hoàng Thôn ( Tsarskoe Selo) – một ngôi trường nhỏ dành cho các con em gia đình quý tộc sa sút - từ năm 1811. Do giỏi tiếng Pháp và am tường thi ca Pháp, cậu có biệt danh là “Người Pháp” và luôn luôn dẫn đầu trong các cuộc thi trong trường.. Thời gian này, cậu bé đã sớm “kết bạn” với một nhóm các nhà thơ Nga, và chịu ảnh hưởng của họ rất lớn, đặc biệt là Zhukovsky, Viazemsky và Volter. Cậu đi theo con đường thi ca vô thần và có thiên hướng trào phúng, châm biếm giống như Volter. Năm 15 tuổi, Pushkin chính thức được coi là nhà thơ khi bài thơ “Gửi nhà thơ- bạn tôi” của cậu được đăng trên tạp chí “Tin tức châu Âu”, số tháng 7-1814. Kết thúc Litsee vào năm 1817, Pushkin đã tỏ ra rất xuất sắc trong cuộc thi tốt nghiệp với bài thơ: “Vô tín ngưỡng”. Bấy giờ, trong ban giám khảo có rất nhiều thành viên của hội văn học “Armazas”** . Một người trong số họ nhận xét: “Một cậu bé 18 tuổi đời, lần đầu tiên được sổ lồng đến với tự do, với trí lực thi ca bay bổng, lại mang dòng máu châu Phi sôi sục trong người, ở thời đại này, khi mà ý niệm về tự do đang dào dạt nhất, thì hỏi làm sao cậu ấy không thể trở thành một người theo chủ nghĩa tự do được chứ?” Và quả đúng như vậy. Sau khi về Peterburg làm việc tại Ban cán sự ngoại giao, Pushkin không ngừng viết những bài thơ ca ngợi tự do và miệt mài làm thơ trào phúng. Tác phẩm lớn nhất thời kỳ này của nhà thơ là “Ruslan và Lutmila” (1820). Thi phẩm đã trở thành đề tài tranh luận cho chính giới và nhà thơ bị “đuổi khéo” ra khỏi thủ đô, đến Kavkaz, rồi sau đó xuống miền Nam, đi Krym, chuyển tới Kishiniov, Odessa… Thời kỳ “Nam tiến” này đem lại cho ngòi bút của nhà thơ chất lãng mạn say đắm đã làm nên một Pushkin – nhà thơ tình yêu- cho thế giới. Trong chúng ta, hẳn nhiều người còn nhớ những vần thơ yêu “âm thầm, không hy vọng”: Tôi yêu em: đến nay chừng có thể. Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai; Nhưng không để em bận lòng thêm nữa, Hay hồn em phải gợn bóng u hoài. Tôi yêu em âm thầm không hy vọng, Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen, Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm, Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em. (Tôi yêu em – 1929) và day dứt ngày đêm, có chút dỗi hờn, tủi phận: Một chút tên tôi đối với nàng Sẽ chìm như tiếng sóng buồn tan Âm thầm mòn mỏi bên bờ vắng, Như tiếng đêm thâu lạc giữa ngàn. (Một chút tên tôi đối với nàng -1830) và xôn xao, mong nhớ: Cả hồn anh bỗng dưng tỉnh giấc Trước mắt anh em lại hiện lên, Như hư ảo mong manh vụt biến, Như thiên thần sắc đẹp trắng trong. Trái tim lại rộn ràng náo nức Và trái tim sống dậy đủ điều Cả thiên thần, cả nguồn cảm xúc Cả đời, cả lệ, cả tình yêu. (Gửi…, 1825) Thế nhưng, ngoài trái tim trẻ đang sôi nổi yêu đương, trong Pushkin còn định hình dần một thế giới quan mới mẻ: nhà thơ kết bạn với những người “tháng Chạp”*** . Nhà thơ yêu quý họ bằng cả tâm hồn chân thực, trẻ trung của mình, bất chấp việc phong thanh biết họ là những người của hội kín và đang mưu tính những việc động trời. Năm 1823, khi làm việc ở Odessa, do bất đồng quan điểm với cấp trên, Pushkin bị gửi về Mikhailovskoe vào tháng 8 năm 1824 và bị quản thúc ở đó. Ngày 14 tháng 12 năm 1825, khi xảy ra cuộc khởi nghĩa tháng Chạp, Pushkin không hề tham gia vào bất kỳ một hành động nào của nhóm tháng Chạp. Zhukovsky, người bạn lớn của nhà thơ, bấy giờ có viết cho Pushkin: “Cậu không bị lôi kéo đấy chứ? Nhưng sao trên mỗi một tờ truyền đơn của nhóm khởi nghĩa đều in thơ của cậu. Đó thật là phương cách tồi tệ để kết thân với chính phủ đấy!” Thực ra, Pushkin hoàn toàn không tham gia những hội kín này, nhưng nhà thơ có tình cảm sâu sắc với những người Tháng Chạp. Ông từng gọi họ là “bạn bè, những người anh em, đồng chí”, vì thế, khi được tin họ bị hành hình, Pushkin rất đau lòng. Và cuối cùng, nỗi đau ấy đã bật lên trong bài thơ “Tiên tri”: “Hỡi tiên tri, hãy mau mau đứng dậy Hãy mở mắt, hãy nghe, hãy thấy Hãy làm theo ý nguyện của ta Đi khắp năm châu bốn bể gần xa Đem lời lẽ đốt cháy lòng thiên hạ” Chỉ bấy giờ, nhà thơ mới cảm thấy thực sự muốn tham gia vào cuộc cách mạng này, một cách rất cảm tính, nhưng đầy cuồng nhiệt và đau xót. Pushkin cảm thấy trách nhiệm của một nhà thơ, như một nhà tiên tri trong xã hội, phải biết dùng thơ để chiến đấu, để thúc giục lòng người đến với niềm phóng khoáng đang gọi mời ngây ngất. Nga Hoàng mới lên lúc ấy đương nhiên đã để ý đến Pushkin và những vần thơ tự do của nhà thơ trẻ. Trong một lần Pushkin tiếp kiến Nga Hoàng, Nikolai đệ Nhất đã tuyên bố nửa đùa nửa thật: “Ta sẽ là người kiểm duyệt thơ anh. Hãy gửi cho ta những gì anh viết”. Câu nói ấy có thể coi là đùa nếu nhớ đến bài thơ: “Gửi người kiểm duyệt thơ” của Pushkin, sáng tác cách đó vài năm. Đồng thời, đó là một sự thật. Tất cả những thi phẩm của Pushkin về sau đều được trình lên Nga Hoàng “xem xét”. Và thơ của Pushkin ngày càng khó được in ấn hơn! Thế nhưng, chuyện in hay không in đối với nhà thơ vĩ đại nhất nước Nga đâu còn là vấn đề, khi mà thơ của ông thấm đẫm tình yêu và hồn Nga. Kể cả khi đã chết đi rồi thì trái tim yêu của nhà thơ vẫn đập, vẫn sống trong từng vần thơ nóng bỏng. TRong bài thơ “Trên đồi Gruzi đêm xuống” (1829), nhà thơ từng nói rằng trái tim ông cháy và yêu chỉ bởi một điều “không thể sống mà không yêu” được! Tình yêu sâu sắc đối với người vợ trẻ xinh đẹp Natalia Goncharova đã khiến Pushkin đối mặt với cái chết trong trận đấu súng. Và nước Nga, vào ngày 10-2-1837, đã mất đi một nhà thơ vĩ đại, người đã đặt nền móng cho một nền văn học Nga mới và thứ tiếng Nga hiện đại. “Pushkin là tất cả của chúng ta, là đại diện cho tinh thần, nét đặc sắc của chúng ta – những gì còn lại sau khi chúng ta đối mặt với những điều xa lạ, với một thế giới khác!” - nhà thơ Nga Apollon Grigoriev (1822-1864) đã có lý khi viết về Aleksandr Sergeyevich Pushkin như vậy. Bài thơ lớn cuối cùng trong đời mình nhà thơ đã viết như một lời định mệnh, vừa kiêu hãnh, vừa tự tin, và cho đến bây giờ, cho đến mai sau, vẫn mãi là chân lý: “Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm Không bởi sức tay người ! Đường tới viếng Cỏ không trùm mất dấu bước thế nhân, Đỉnh tháp ngang tàng sẽ ngẩng cao hơn Cả trụ thờ Alecxanđrơ đệ nhất Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết! Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi. …” (Trích bài thơ “Tượng đài”, 1836) 3-2008 Những câu thơ trích trong bài do Thúy Toàn dịch. (*) “Mặt trời của Thi ca ta đã tắt” – lời của nhà nghiên cứu văn họcVladimir Odoevsky (1804—1869) khi Pushkin qua đời. (**) Nhóm những người hoạt động nghệ thuật, thành lập năm 1815, với thông điệp đấu tranh với gu thẩm mỹ cũ của nền văn học Nga, đi tìm cái mới. Pushkin cũng được kết nạp vào Hội này. (***) Là những người tham gia phong trào chống đối giới quý tộc Nga, thành viên của nhiều hội kín vào những năm 10, 20 của thế kỷ 19, tổ chức cuộc nổi dậy vào tháng Chạp năm 1825. "Xin anh đừng hỏi vì sao Tên anh em để lẫn vào trong thơ..." ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook

Aleksandr Sergeyevich Pushkin (Александр Сергеевич Пушкин, 1799-1837) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga, ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ 19 bởi nhiều cống hiến trong sự đa dạng hoá ngôn ngữ văn chương.

Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (26 tháng 5 theo lịch cũ) tại thành phố Moskva trong một gia đình quý tộc Nga có nguồn gốc từ thế kỷ 12. Cha của Pushkin là hậu duệ của dòng dõi gia đình Boyar cũ - tước hiệu cao cấp nhất trong tầng lớp quý tộc của Nga và Romania thời xưa, nhưng lại luôn cảm thấy xấu hổ vì điều này, và rất ít quan tâm đến những khái niệm như gia đình, thu nhập và giá cả nông sản, mà chỉ sống trong cảnh thảnh thơi, nhàn nhã và vô lo. Mẹ Pushkin thuộc dòng dõi của Abram Petrovich Gannibal, một người nô lệ da đen, nhờ thông minh xuất chúng và có những đóng góp lớn về quân sự, hàng hải cho nước Nga, đã được Pyotr Đại đế nhận làm con nuôi.

Sáu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum Hoàng gia, tại Tsarskoe Selo (Hoàng Thôn, nay là thị trấn Pushkin) gần kinh đô Sankt-Peterburg. Thời gian theo học tại đây ông đã chứng kiến cuộc chiến tranh giữa quân đội Nga hoàng với quân Pháp của Napoléon I (1812). Ông có bài thơ nổi tiếng về chủ đề này - Hồi ức ở Hoàng Thôn (Воспоминание о Царском Селе, 1815). Bài thơ này đã được nhà phê bình văn học Nga nổi tiếng thời bấy giờ là Gavrila Romanovich Derzhavin (Гаврил Романович Державин) coi là một tác phẩm kiệt xuất và đã tôn vinh Pushkin, khi đó mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga.

Sau khi tốt nghiệp Lyceum, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lúc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nông nô tại Nga. Thời gian này ông cho ra đời những bài thơ mang tính chính trị như Gửi Chaadaev (К Чаадаеву, 1818), Gửi N. Ya. Plyuskova (Н. Я. Плюсковой, 1818), Làng quê (Деревня, 1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiên của mình - Ruslan và Lyudmila (Руслан и Людмила) và ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cách cũng như chủ đề, mặc dù cũng phải chịu sự công kích dữ dội từ phía chính quyền.

Mùa xuân 1820, do những bài thơ cách mạng, thống đốc Sankt-Peterburg, bá tước M. Miloradovich, đã quyết định đày Pushkin tới Sibir. Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (Nikolai Mikhailovich Karamzin, Pyotr Yakovlevich Chaadayev, Fyodor Nikolayevich Glinka), cuối cùng ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn là bị trục xuất khỏi thành phố Sankt-Peterburg vô thời hạn. Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đã đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Krym, Moldova, Kiev. Trong thời gian này ông vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới có ảnh hưởng rất lớn tới văn học Nga thế kỷ 19, như Người tù binh Kavkaz (Кавказский пленник, 1822), Gavriiliada (Гавриилиада, 1821), Anh em lũ cướp (Братья разбойники, 1822), Đài phun nước Bakhchisaraysky (Бахчисарайский фонтан, 1824). Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết tiểu thuyết bằng thơ, kiệt tác Yevgeny Onegin (Евгений Онегин).

Tháng 7 năm 1824, với đơn xin ân xá, Pushkin được chính quyền cho phép về ở khu trang trại Pskov tại vùng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soát của gia đình. Tại Mikhailovskoe ông đã sáng tác những tác phẩm lịch sử như vở kịch Boris Godunov (Борис Годунов, 1825), Với biển cả (К морю, 1826), trường ca Những người Digan (Цыганы, 1827).

Năm 1825, trong lần sang thăm trang trại láng giềng, Pushkin đã gặp nàng Anna Kern, người tạo cho ông cảm hứng để sáng tác bài thơ nổi tiếng Gửi K. Cuối năm 1825 đầu năm 1826 kết thúc chương năm và sáu của Evgeny Onegin, mà lúc đó Puskin coi là đoạn kết cho phần một của tác phẩm.

Cuối năm 1825, thông qua một số viên chức có thiện chí, Pushkin đã được tiếp cận Nga hoàng Nikolai I để đệ đơn xin ân xá và được Nga hoàng chấp thuận. Tuy nhiên sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tháng Chạp năm 1825 tại Sankt-Peterburg, chính quyền đã xem xét lại tất cả các ấn phẩm chống đối chính quyền của Pushkin trước đó và quyết định buộc ông bị quản thúc tại gia và có chính sách kiểm duyệt nghiêm khắc các tác phẩm của nhà thơ. Pushkin đã chuyển về Moskva sống trong thời gian này.

Năm 1831 được đánh dấu bởi một sự kiện rất quan trọng trong sự nghiệp của Pushkin, ông đã có buổi gặp gỡ với Nikolai Vasilyevich Gogol, một nhà văn Nga nổi tiếng khác. Cả hai nhanh chóng trở thành bạn thân và luôn hỗ trợ nhau trong hoạt động nghệ thuật. Puskin đã có ảnh hưởng lớn tới những nhân vật trong các tác phẩm châm biếm phê phán hiện thực của Gogol.

Cùng năm 1831, Pushkin kết hôn với người đẹp Natalia Goncharova, người đã đem lại cho ông cảm hứng sáng tác lớn lao. Ông hoàn tất chương Bức thư của Onegin trong tác phẩm Evegeny Onegin và cũng là chương kết của công trình vĩ đại mà nhà thơ đã mất 8 năm để thực hiện.

Tháng 11 năm 1833, Puskin trở lại Sankt-Peterburg, và cảm thấy cần phải có những thay đổi lớn trong cuộc sống, ông không muốn bị kìm kẹp trong bốn bức tường do chế độ quản thúc. Nhờ sự sủng ái của Nga hoàng Nikolai I, đầu năm 1834 chế độ quản thúc đối với Pushkin được nới lỏng, tuy nhiên các tác phẩm thơ ca của ông vẫn phải có sự đồng ý của Sa hoàng mới được phát hành. Do vậy hoàn cảnh kinh tế của nhà thơ không được thuận lợi, Pushkin phải đăng ký vào một chức vụ thư lại trong viện biên sử của Sa hoàng. Thời kỳ này, Puskin chuyển hướng sang viết văn xuôi. Ông sáng tác truyện vừa như Con đầm bích (Пиковая дама), tiểu thuyết như Dubrovski (Дубровский, 1832-33), Con gà trống vàng, Người da đen của Pyotr Đại đế (không hoàn thành)...

Cùng với những người bạn, Pushkin đã thành lập tờ tạp chí Người đương thời (Современник). Nhiều tác giả nổi tiếng của Nga thời bấy giờ như Aleksandr Ivanovich Turgenev, N.V. Gogol, V.A. Zhukovski, P.A. Vyazemski đã ủng hộ bằng cách gửi những tác phẩm mới nhất của mình tới cho tạp chí này. Tuy nhiên, độc giả Nga khi đó chưa quen với những bài viết mang tính phê phán hiện thực sâu sắc đã không hưởng ứng tạp chí Người đương thời. Số lượng độc giả quá ít khiến ban biên tập lâm vào tình thế rất khó khăn, họ không có đủ tiền để trang trải cho việc in ấn và thù lao cho cộng tác viên. Hai số cuối của tạp chí có đến quá nửa là sáng tác của Pushkin, phần lớn là để vô danh. Tiểu thuyết Người con gái viên đại uý (Капитанская дочка) chính là được in trên tạp chí này.

Vợ của Pushkin - Natalia Goncharova, là một phụ nữ đẹp và quý phái vì vậy luôn có rất nhiều người ái mộ, trong số đó có cả Nga hoàng Nikolai I. Trong khi đó Puskin, do nguồn gốc châu Phi của mình, lại có một bề ngoài không mấy bắt mắt. Điều này làm cho Puskin rất khó chịu và không ít lần cảm thấy bực bội. Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ mình với Georges d’Anthès, một sĩ quan kỵ binh trong quân đội Sa hoàng, Puskin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ súng đã kết thúc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đã bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đó – ngày 10 tháng 2 năm 1837 (29 tháng một trong lịch Julian).

Di sản văn chương của Pushkin rất phong phú, gồm cả thơ ca, kịch, sử thi, tiểu thuyết.
Aleksandr Sergeyevich Pushkin (Александр Сергеевич Пушкин, 1799-1837) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga, ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ 19 bởi nhiều cống hiến trong sự đa dạng hoá ngôn ngữ văn chương.

Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (26 tháng 5 theo lịch cũ) tại thành phố Moskva trong một gia đình quý tộc Nga có nguồn gốc từ thế kỷ 12. Cha của Pushkin là hậu duệ của dòng dõi gia đình Boyar cũ - tước hiệu cao cấp nhất trong tầng lớp quý tộc của Nga và Romania thời xưa, nhưng lại luôn cảm thấy xấu hổ vì điều này, và rất ít quan tâm đến những khái niệm như gia đình, thu nhập và giá cả nông sản, mà chỉ sốn…

 

Ảnh đại diện

Phỏng vấn dịch giả Thuý Toàn

Tháng 10 năm 1991, tôi đã bỏ 500.000 đồng in một tập thơ nói về nước Nga để mong mọi người hiểu và yêu nước Nga đúng như những gì xứ sở này đã có”. Dịch giả Thuý Toàn tâm sự.

Thuý Toàn tuổi Hổ, sinh năm 1938. Ông nói rằng mình “đã là ông già 70, tóc bạc rồi”. Nhưng gương mặt ông vẫn tràn đầy nhiệt huyết. Vẫn thoáng chút hồn nhiên và thơ trẻ như thể một phần tâm hồn Nga, tính cách Nga đã ở lại với nhà dịch giả này mãi mãi.

“Thiên đường mơ ước”

Người đầu tiên vẽ hình ảnh nước Nga vào trái tim Thuý Toàn là nhạc sĩ Phạm Tuyên - con trai của Phạm Quỳnh. Lúc ấy Thuý Toàn 12 tuổi, là thiếu sinh quân ở chiến khu Việt Bắc, còn Phạm Tuyên là đại đội trưởng, kiêm giáo viên văn của trường. Những câu trích trong tác phẩm: “Thời gian ủng hộ chúng ta” của Êrenbua (bản dịch của Thép Mới) qua giọng đọc rất truyền cảm của Phạm Tuyên đã khiến ông thuộc lòng đến tận bây giờ: “Lòng yêu nước bắt đầu từ những vật tầm thường nhất. Yêu cái cây trồng ở trước nhà. Yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông hay vị thơm chua mát của trái cây mùa thu”.

Vài ba lần, các Thiếu sinh quân lớp Thuý Toàn được sang bên kia biên giới Trung Quốc tham dự Tuần lễ “Hữu nghị Việt - Trung - Xô”. Nhìn những thiếu nữ Nga nắm tay nhau nhảy múa và hát bài: “Nhân dân Liên xô vui hát trên đồng hoa”, trong đầu các học sinh đầy lý tưởng lãng mạn lúc đó, nước Nga càng là thiên đường mơ ước. “Chúng tôi đã truyền tay nhau đọc từng đoạn của cuốn sách ‘Thép đã tôi thế đấy”. Những đoạn nói về tình yêu của Paven và Rita đã khiến chúng tôi rất ngưỡng mộ”.

Trong những đêm mùa đông Việt Bắc bị cái đói giày vò, cậu thiếu sinh quân Thuý Toàn đã ru mình vào giấc ngủ bằng hình ảnh thiên đường về nước Nga xa xôi.

Rồi chuyến tàu xuyên qua Trung Á cũng đã đưa cậu học trò lãng mạn tới nước Nga. Lúc đó Thuý Toàn 16 tuổi, được chọn đi học tiếng Nga cùng 99 thanh niên khác để sau này trở về làm phiên dịch.

“Tàu qua xa mạc Xiberi 8 ngày, thật lạ lẫm. Dọc đường rất nhiều người dân Nga sắp từng hàng dọc đón chào nồng nhiệt, trẻ em cầm hoa trên tay, có người già cầm quả táo trao. Ở Matxcơva cũng vậy, rất nhiều người Nga vây quanh học sinh Việt. Nước Nga khi chúng tôi đến là mùa đông nhưng trong lòng mỗi người, thật ấm áp”.

“Tôi đã dịch một bài thơ PusKin 30 năm mới xong”

Dù phải học tiếng Nga qua trung gian tiếng Trung, tiếng Pháp vì cô giáo không hiểu tiếng Việt và học trò không biết tiếng Nga nhưng sang năm học thứ 2, Thuý Toàn đã có thể dịch những mẩu chuyện nho nhỏ dành cho trẻ em gửi đăng ở báo “Người giáo viên nhân dân”.

Thuý Toàn đặc biệt thích viết những bài thơ, mẩu chuyện nhỏ thiếu nhi bằng tiếng Nga. Bao thế hệ trẻ em Việt đã hát “Mèo con đi học...” và “Chỉ có một mà thôi”: Trên trời cao có muôn vàn ánh sao...” nhưng ít người biết lời bài hát là bản dịch của Thuý Toàn.

Khi 100 học sinh ấy học xong phổ thông, 19 người đã được giữ lại để tiếp tục học sâu hơn về ngôn ngữ ở trường đại học. Thuý Toàn là một trong những người may mắn ấy.

“Buổi sáng mùa đông” là bài thơ đầu tiên của Puskin mà Thuý Toàn tiếp cận nhưng phải 30 năm sao ông mới dịch xong.

“Hôm đó, cũng là buổi sáng mùa đông. Chúng tôi được cô giáo đưa ra ngoại thành chơi. Đập vào mắt chúng tôi là mùa đông Nga hoang sơ, đẹp một vẻ đẹp lạ lùng. Những lùm cây lúp xúp. Những cánh đồng nhấp nhô... Cô giáo đã đọc bài thơ “Buổi sáng mùa đông” bằng giọng rất truyền cảm. Cảm xúc trào dâng trong lòng, tối hôm ấy, tôi đã tra từ điển để dịch ra tiếng Việt. Nhưng không thể dịch được”.

Sau này, dù đã dịch được nhiều bài thơ khác của Puskin nhưng ông vẫn không thể dịch trọn vẹn bài thơ này. “Hiểu được nghĩa, cái thần, cái hồn nhưng tìm được từ thích hợp để chuyển thể, thật khó”, ông giải thích.

“Hãy hiện lên như ngôi sao chói lọi
Miền Bắc phương chào buổi sáng Bắc phương...
Nắng sớm gọi, tuyết tưng bừng rực rỡ
Trải mênh mông như tấm thảm tuyệt vời
Như trong xanh thăm thẳm của vòm trời...

Đến năm 1987, vào một buối tối mùa đông tại Việt Nam, ông mới dịch được trọn vẹn bài thơ này. Và hôm nay đây, khi nghe ông đọc lại từng câu, càng thấy nỗi nhớ mùa đông nước Nga trong ông - và cả những người của thế hệ ông - da diết đến chừng nào.

Khi còn là sinh viên năm thứ 4, Thuý Toàn đã có những bản dịch thơ Puskin gửi về nước cho Nhà xuất bản Văn học. Bản thảo chép tay rất đẹp của người yêu - là bạn học của ông lúc đó và là người bạn đời của ông bây giờ - đã khiến NXB tưởng Thuý Toàn là con gái.

“Hồi đó, chúng tôi luôn thấy mình và những nhà thơ Nga có điều gì đó thật đồng điệu. Một không khí sống, bầu nhiệt huyết hừng hực, lòng yêu nước và khát vọng tự do... Thêm nỗi buồn man mác ẩn giấu ở đâu đó trong những câu thơ thể hiện đặc trưng của tâm hồn Nga và những cung bậc tình yêu được thể hiện một cách chân thành và dữ dội...”

Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu
Trước mắt anh em bỗng hiện lên
Như hư ảo mong manh vụt biến
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong...

Nhiều câu thơ Puskin bất hủ như thế qua bản dịch của Thuý Toàn đã ở lại với rất nhiều người Việt.

Nhưng Thuý Toàn nói rằng ông không phải là người Việt Nam dịch thơ Puskin nhiều nhất, tổng cộng có 50 bài. “Nhưng tại sao mỗi khi nhắc đến Puskin, người ta lại nhắc đến “dịch giả Thuý Toàn”? “Bởi vì tôi đã dịch như thể rút ruột rút gan của mình. Có lẽ thế?”.

Có thể điều Thuý Toàn cảm nhận về nước Nga, văn học Nga nói chung và Puskin nói riêng có chỗ còn phải bàn lại nhưng điều không bao giờ có thể phủ nhận được là những gì ông đã làm là kéo gần người Việt với tâm hồn Nga.

“Đừng bi kịch hoá nước Nga”



Đến năm 1961, Thuý Toàn về nước, mãi đến năm 1976 mới có dịp quay lại Nga.

Từ năm 1976 đến năm 1980, Thuý Toàn được trở lại Nga thường xuyên. Ông nhớ nước Nga và khát khao quay trở lại đó đến nỗi khi đã là Phó giám đốc NXB Văn học, ông vẫn sẵn sàng làm phiên dịch ngắn ngày nếu Bộ Văn hoá yêu cầu. Nhờ những chuyến đi đó mà ông thấy được nước Nga trong những bước chuyển âm thầm và những dự báo cho câu chuyện đau lòng năm 1991. Một nước Nga không giống như bức tranh màu hồng mà chàng thanh niên Thuý Toàn chứng kiến những năm năm mươi của thế kỷ 20.

- Khi biến cố 1991 xảy ra, ông có cảm giác thế nào?

- Năm 1980, tôi đã được chứng kiến tại những cửa hàng lớn cửa hàng lớn ở Matxcơva, từng đoàn, từng đoàn phụ nữđi ủng, mặc áo lông trùm khăn kín đầu đến từ nông thôn, xếp hàng mua từng bao tải thịt lợn, bánh mỳ đem về. Những thứ đó, lẽ ra những người nông dân không thiếu. Có lẽ vì thế mà khi biến cố 1991 xảy ra, tôi không thấy bất ngờ. Tháng 10 năm đó, tôi đã bỏ tiền túi ra để in một tập thơ - 500.000 đồng lúc đó là rất lớn - tập hợp những bài thơ của nhiều tác giả Nga. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm để nói với lòng mình rằng: ta đã hiểu đúng và yêu nước Nga đúng như những gì nó có. Và cũng mong muốn người ta hiểu và chia sẻ như thế.

- Ông có thể đọc một bài thơ thật tiêu biểu trong tập thơ 25 bài đó không?

Giọng đọc của ông vang lên, trầm hùng và buồn da diết. Như nỗi nhớ và tình yêu da diết ở trong ông. Đó là bài thơ của một tác giả không tên tuổi được ông dịch vào đúng thời gian nước Nga đầy biến động - năm 1991.

Ở nước Nga không có bầu trời nào mà không có mây
Ở nước Nga không có bánh mỳ nào mà không có mồ hôi
Ở nước Nga không có ngôn từ nào mà không có ẩn dụ
Ở nước Nga không có hồ nước nào mà không có đầm lầy
Không có rừng nào ở nước Nga mà không có thần rừng
Không có ngôi nhà nào ở nước Nga mà không có gia thần
Không có ngày hội nào ở nước Nga mà không quá chén
Không có hạnh phúc nào ở nước Nga mà được cho không...

Năm 1993, qua lại Nga, gặp cảnh nhiều người Nga mệt mỏi đi bán rong từ bánh xà phòng, hộp kem đánh răng, mấy thước vải, Thuý Toàn đã buồn như thể chứng kiến cảnh người dân của đất nước mình nghèo đói. “Thế nhưng thật lạ lùng, một năm sau qua lại đã không còn điều ấy nữa. Nước Nga có những điều đặc biệt không thể giải thích nổi...
“Không thể đo nước Nga bằng dòng thước
Nước Nga có một điều đặc biệt
Hãy đặt niềm tin vào nước Nga”

- tôi thấy mấy câu thơ đó thật chí lý. Cũng có thể vì thế mà tôi rất bực khi vào những thời điểm khó khăn, nhiều người lại cứ bi kịch hoá nước Nga”.

- Thế còn mỗi lần nước Nga xảy ra động đất, khủng bố, chìm tàu ngầm, tâm trạng của ông thế nào?

- Thấy như người thân mình bị thương tổn vậy. Tôi không có cảm giác như nhiều người; rằng là nước Nga nguy mất rồi. Đừng bi kịch hoá nước Nga. Một đất nước lớn như thế, đang trải qua những sự thay đổi lớn lao như thế. Sự thương tổn là điều tất nhiên thôi. Xin đừng bi kịch hoá nước Nga.

Ông vẫn nói bằng nhiệt huyết của Thuý Toàn 16 tuổi, lần đầu tiên đặt chân đến nước Nga.

Lương Thị Bích Ngọc (thực hiện)

Nguồn: http://www.vnn.vn/psks/nhanvat/2004/11/342692/
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Pushkin, tượng đài Thi ca Nga

Tác giả: Thuỵ Anh


Ở Matxcơva, trên đại lộ Tverskaia, một trong những đại lộ chính của thủ đô nước Nga, sừng sững tượng đài nhà thơ Nga vĩ đại Aleksandr Sergeevich Pushkin. Pushkin, “mặt trời của thi ca Nga”* , người đứng đó, trầm mặc, kiêu hãnh. Cho dù thời thế đổi thay, lòng người thay đổi, thì dưới chân tượng đài đá xám này chưa bao giờ thiếu những đóa hoa tươi.

Gần hai thế kỷ qua đi, những vần thơ khẳng khái, mê say ngày nào đã làm nên một tượng đài khác nữa tưởng nhớ nhà thơ – tượng đài vững chắc trong lòng người – tượng đài thi ca “cao hơn cả trụ thờ Aleksandr đệ Nhất”.

Pushkin sinh ngày 6-6-1799 tại Matxcơva, trong một gia đình không giàu có nhưng danh giá. Dòng họ Pushkin là dòng họ có tiếng, như sau này chính nhà thơ đã nói: “Tên tuổi tổ tiên tôi thấp thoáng trong lịch sử…”. Tự hào về dòng dõi quý tộc của mình, nhà thơ tương lai cảm nhận về lịch sử bằng tình cảm trân trọng sâu sắc và tìm hiểu lịch sử Nga như một sự nghiệp của nhân dân vĩ đại, bắt nguồn từ những giá trị nhân bản sâu xa và tiếp nối đến muôn đời. Điều ấy sau này thể hiện rất rõ trong các tác phẩm văn học sử của ông như “Người da đen của Piotr đệ Nhất”,  "Bi kịch Boris Godunov" (1825), "Truyện của Belkin" (1830), "Người trạm trưởng", "Trường ca kỵ sĩ bằng đồng" (1833), và rất nhiều thi phẩm khác.

Thời ấu thơ, trong gia đình, cậu bé Sasha (tên thân mật của Aleksandr) không được cha mẹ để tâm cho lắm bởi cậu tỏ ra khá .. lập dị, hơi khó hiểu với những thiên hướng thi sĩ của mình. Chỉ có hai người phụ nữ gần gũi cậu và là hai người để lại ảnh hưởng sâu sắc đối với cuộc sống nội tâm của nhà thơ tương lai – đó là bà ngoại Maria Alekseevna Gannibal (1745-1818) và bà vú Arina Rodionovna Iakovleva (1758-1828).

Những ngày ấu thơ thân ái, khi cậu bé được cuộn mình trong chiếc giỏ khâu lớn của bà ngoại, được nghe những bài hát cổ xưa nức nở trong chiều đông tuyết giá mà bà vú Arina thường hát bằng giọng khe khẽ buồn rầu… đã để lại trong tâm hồn thơ trẻ một thế giới đầy nhạc và thơ. Nhiều thi phẩm của Pushkin sau này viết về thiên nhiên Nga cũng thấm đẫm một nỗi buồn trong sáng, xuất phát từ nỗi sầu dịu dàng trong những bài dân ca cậu nghe thời nhỏ ấy:

Trên con đường mùa đông vắng vẻ
Cỗ xe tam mã băng đi
Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ
Dịu dàng khắc khoải lòng quê

Bài ca của người xà ích
Có gì phảng phất thân yêu:
Như niềm vui mừng khôn xiết
Như nỗi buồn nặng đìu hiu

Sầu lắm. Nhina, đường xa vắng
Ngủ quên, bác xà ích lặng im
Nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm
Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng
(Con đường mùa đông – 1826)
Trong bài “Buổi tối mùa Đông”, nhà thơ đã âu yếm nói với bà vú già – “người bạn lòng tri kỷ” của mình:

Ngoài trời đầy gió bão
Tuyết lốc quay mịt mờ
Khi gầm như mãnh thú
Khi gào như trẻ thơ
Hỡi bạn lòng tri kỷ
Những ngày thơ cơ hàn
Rượu đâu? Ta mang cốc,
Rượu vào nỗi buồn tan..

Hát con nghe khúc hát
Có con chim sơn tước
Sống lặng lẽ ngoài khơi
Hát cho con khúc hát
Có cô gái sớm mai
Ra ngoài trời quẩy nước

(Buổi tối mùa đông, 1825)

Còn một người nữa cũng đóng góp phần quan trọng trong sự hình thành một trái tim nhạy cảm của nhà thơ – đó là người chú họ xa, Nikita Kozlov, người thường cùng cậu lang thang trên các đường phố Matxcơva khi cậu đôi chút lớn lên.
Ba người này là những người nuôi dưỡng hồn Nga trong Pushkin, đối lập lại với kiểu giáo dục quý tộc của gia đình thời ấy là .. quẳng cậu bé cho hết gia sư này đến gia sư khác người Pháp mà cậu không mấy thích thú. Những tác phẩm đậm chất Nga của Pushkin về sau hẳn đã bắt nguồn từ thuở thiếu thời êm ấm ấy. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nga Nikolai Gogol (1809-1852) đã từng thốt lên: “Pushkin là một hiện tượng đặc biệt, và có thể là một hiện tượng duy nhất của hồn Nga. Trong con người này,  thiên nhiên Nga, tâm hồn Nga, tiếng Nga, tính cách Nga được phản ánh một cách trong sáng, bằng một vẻ đẹp trong sáng, tưởng như một bức tranh phong thủy hiện lên trên nền một tấm kính trong veo”…
Những thi phẩm xuất phát từ hồn Nga như “Kazak”, “Nàng niên cá”, “Những người di-gan”, “Evgheny Onegin”… là những ví dụ hùng hồn nhất cho nhận xét này.
Đương nhiên, cũng phải nói rằng, Pushkin đã may mắn được sinh ra trong một gia đình yêu văn thơ.   Cha mẹ cậu thường xuyên tiếp đón những nhân vật có tiếng trong làng văn nghệ thời bấy giờ, như Karamzin , Derzhavin, Bogdanovich, Krylov… Năm lên 8, Pushkin đã viết những vần thơ đầu tiên và thậm chí viết cả những bài thơ trào phúng bằng tiếng Pháp để chọc giận những gia sư người Pháp của mình!
Nhưng cậu chỉ thực sự nghiên cứu thơ ca có hệ thống và sâu sắc từ khi nhập học vào trường Litsee được mở ở Hoàng Thôn ( Tsarskoe Selo) – một ngôi trường nhỏ dành cho các con em gia đình quý tộc sa sút - từ năm 1811. Do giỏi tiếng Pháp và am tường thi ca Pháp, cậu có biệt danh là “Người Pháp” và luôn luôn dẫn đầu trong các cuộc thi trong trường.. Thời gian này, cậu bé đã sớm “kết bạn” với một nhóm các nhà thơ Nga, và chịu ảnh hưởng của họ rất lớn, đặc biệt là Zhukovsky, Viazemsky và Volter. Cậu đi theo con đường thi ca vô thần và có thiên hướng trào phúng, châm biếm giống như Volter.
Năm 15 tuổi, Pushkin chính thức được coi là nhà thơ khi bài thơ “Gửi nhà thơ- bạn tôi” của cậu được đăng trên tạp chí “Tin tức châu Âu”, số tháng 7-1814.
Kết thúc Litsee vào năm 1817, Pushkin đã tỏ ra rất xuất sắc trong cuộc thi tốt nghiệp với bài thơ: “Vô tín ngưỡng”. Bấy giờ, trong ban giám khảo có rất nhiều thành viên của hội văn học “Armazas”**  . Một người trong số họ nhận xét: “Một cậu bé 18 tuổi đời, lần đầu tiên được sổ lồng đến với tự do, với trí lực thi ca bay bổng, lại mang dòng máu châu Phi sôi sục trong người, ở thời đại này, khi mà ý niệm về tự do đang dào dạt nhất, thì hỏi làm sao cậu ấy không thể trở thành một người theo chủ nghĩa tự do được chứ?”
Và quả đúng như vậy. Sau khi về Peterburg làm việc tại Ban cán sự ngoại giao, Pushkin không ngừng viết những bài thơ ca ngợi tự do và miệt mài làm thơ trào phúng. Tác phẩm lớn nhất thời kỳ này của nhà thơ là “Ruslan và Lutmila” (1820). Thi phẩm đã trở thành đề tài tranh luận cho chính giới và nhà thơ bị “đuổi khéo” ra khỏi thủ đô, đến Kavkaz, rồi sau đó xuống miền Nam, đi Krym, chuyển tới Kishiniov, Odessa… Thời kỳ “Nam tiến” này đem lại cho ngòi bút của nhà thơ chất lãng mạn say đắm đã làm nên một Pushkin – nhà thơ tình yêu- cho thế giới. Trong chúng ta, hẳn nhiều người còn nhớ những vần thơ yêu “âm thầm, không hy vọng”:
Tôi yêu em: đến nay chừng có thể.
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.

Tôi yêu em âm thầm không hy vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm,
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
(Tôi yêu em – 1929)
và day dứt ngày đêm, có chút dỗi hờn, tủi phận:
Một chút tên tôi đối với nàng
Sẽ chìm như tiếng sóng buồn tan
Âm thầm mòn mỏi bên bờ vắng,
Như tiếng đêm thâu lạc giữa ngàn.
(Một chút tên tôi đối với nàng -1830)

và xôn xao, mong nhớ:
Cả hồn anh bỗng dưng tỉnh giấc
Trước mắt anh em lại hiện lên,
Như hư ảo mong manh vụt biến,
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong.

Trái tim lại rộn ràng náo nức
Và trái tim sống dậy đủ điều
Cả thiên thần, cả nguồn cảm xúc
Cả đời, cả lệ, cả tình yêu.
(Gửi…, 1825)
Thế nhưng, ngoài trái tim trẻ đang sôi nổi yêu đương, trong Pushkin còn định hình dần một thế giới quan mới mẻ: nhà thơ kết bạn với những người “tháng Chạp”***   . Nhà thơ yêu quý họ bằng cả tâm hồn chân thực, trẻ trung của mình, bất chấp việc phong thanh biết họ là những người của hội kín và đang mưu tính những việc động trời.
Năm 1823, khi làm việc ở Odessa, do bất đồng quan điểm với cấp trên, Pushkin bị gửi về Mikhailovskoe vào tháng 8 năm 1824 và bị quản thúc ở đó. Ngày 14 tháng 12 năm 1825, khi xảy ra cuộc khởi nghĩa tháng Chạp, Pushkin không hề tham gia vào bất kỳ một hành động nào của nhóm tháng Chạp. Zhukovsky, người bạn lớn của nhà thơ, bấy giờ có viết cho Pushkin: “Cậu không bị lôi kéo đấy chứ? Nhưng sao trên mỗi một tờ truyền đơn của nhóm khởi nghĩa đều in thơ của cậu. Đó thật là phương cách tồi tệ để kết thân với chính phủ đấy!”
Thực ra, Pushkin hoàn toàn không tham gia những hội kín này, nhưng nhà thơ có tình cảm sâu sắc với những người Tháng Chạp. Ông từng gọi họ là “bạn bè, những người anh em, đồng chí”, vì thế, khi được tin họ bị hành hình, Pushkin rất đau lòng. Và cuối cùng, nỗi đau ấy đã bật lên trong bài thơ “Tiên tri”:
“Hỡi tiên tri, hãy mau mau đứng dậy
Hãy mở mắt, hãy nghe, hãy thấy
Hãy làm theo ý nguyện của ta
Đi khắp năm châu bốn bể gần xa
Đem lời lẽ đốt cháy lòng thiên hạ”
Chỉ bấy giờ, nhà thơ mới cảm thấy thực sự muốn tham gia vào cuộc cách mạng này, một cách rất cảm tính, nhưng đầy cuồng nhiệt và đau xót. Pushkin cảm thấy trách nhiệm của một nhà thơ, như một nhà tiên tri trong xã hội, phải biết dùng thơ để chiến đấu, để thúc giục lòng người đến với niềm phóng khoáng đang gọi mời ngây ngất.
Nga Hoàng mới lên lúc ấy đương nhiên đã để ý đến Pushkin và những vần thơ tự do của nhà thơ trẻ. Trong một lần Pushkin tiếp kiến Nga Hoàng, Nikolai đệ Nhất đã tuyên bố nửa đùa nửa thật: “Ta sẽ là người kiểm duyệt thơ anh. Hãy gửi cho ta những gì anh viết”. Câu nói ấy có thể coi là đùa nếu nhớ đến bài thơ: “Gửi người kiểm duyệt thơ” của Pushkin, sáng tác cách đó vài năm. Đồng thời, đó là một sự thật. Tất cả những thi phẩm của Pushkin về sau đều được trình lên Nga Hoàng “xem xét”.  Và thơ của Pushkin ngày càng khó được in ấn hơn!
Thế nhưng, chuyện in hay không in đối với nhà thơ vĩ đại nhất nước Nga đâu còn là vấn đề, khi mà thơ của ông thấm đẫm tình yêu và hồn Nga. Kể cả khi đã chết đi rồi thì trái tim yêu của nhà thơ vẫn đập, vẫn sống trong từng vần thơ nóng bỏng. TRong bài thơ “Trên đồi Gruzi đêm xuống” (1829), nhà thơ từng nói rằng trái tim ông cháy và yêu chỉ bởi một điều “không thể sống mà không yêu” được!
Tình yêu sâu sắc đối với người vợ trẻ xinh đẹp Natalia Goncharova đã khiến Pushkin đối mặt với cái chết trong trận đấu súng. Và nước Nga, vào ngày 10-2-1837, đã mất đi một nhà thơ vĩ đại, người đã đặt nền móng cho một nền văn học Nga mới và thứ tiếng Nga hiện đại.
“Pushkin là tất cả của chúng ta, là đại diện cho tinh thần, nét đặc sắc của chúng ta – những gì còn lại sau khi chúng ta đối mặt với những điều xa lạ, với một thế giới khác!” -  nhà thơ Nga Apollon Grigoriev (1822-1864) đã có lý khi viết về Aleksandr Sergeyevich Pushkin như vậy.
Bài thơ lớn cuối cùng trong đời mình nhà thơ đã viết như một lời định mệnh, vừa kiêu hãnh, vừa tự tin, và cho đến bây giờ, cho đến mai sau, vẫn mãi là chân lý:

“Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm
Không bởi sức tay người ! Đường tới viếng
Cỏ không trùm mất dấu bước thế nhân,
Đỉnh tháp ngang tàng sẽ ngẩng cao hơn
Cả trụ thờ Alecxanđrơ đệ nhất

Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết!
Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan
Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân
Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi.
…”
(Trích bài thơ “Tượng đài”, 1836)

3-2008
Những câu thơ trích trong bài do Thúy Toàn dịch.

(*) “Mặt trời của Thi ca ta đã tắt” – lời của nhà nghiên cứu văn họcVladimir Odoevsky (1804—1869) khi Pushkin qua đời.

(**) Nhóm những người hoạt động nghệ thuật, thành lập năm 1815, với thông điệp đấu tranh với gu thẩm mỹ cũ của nền văn học Nga, đi tìm cái mới. Pushkin cũng được kết nạp vào Hội này.

(***) Là những người tham gia phong trào chống đối giới quý tộc Nga, thành viên của nhiều hội kín vào những năm 10, 20 của thế kỷ 19, tổ chức cuộc nổi dậy vào tháng Chạp năm 1825.
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Bài liên quan

Agostinho Neto

Agostinho Neto (1922-1979) là nhà thơ lớn Angola, chủ tịch phong trào nhân dân giải phóng Angola, Đảng Lao động Angola (MPLA), tổng thống đầu tiên của nước Cộng hoà Nhân dân Angola. Ông sinh ở thị trấn Icolo-i-Bengo, gần thủ đô Luanda. Ông đã được giải thưởng quốc tế Lênin "Vì củng cố hoà bình giữa ...

Đinh Thu Hiền (II)

Đinh Thu Hiền sinh năm 1976, quê Hải Dương, là thạc sĩ báo chí, hiện đang sống tại Sài Gòn. Học chuyên ngành báo chí, cô đã theo nghề với những thành công nhất định cả trên phương diện công việc thực hành và nghiên cứu khoa học. Giải thưởng: - Giải thơ Viết về Quyền trẻ em, do Thuỵ Điển tổ chức, ...

Alda Lara

Alda Lara (1930-1962) là nữ thi sĩ người Angola. Bà sinh ở Benguela và mất ở Cambambe, Angola. Alda Lara đã kết hôn với nhà văn Orlando Albuquerque. Thời trẻ, bà sống ở Lisbon. Tại đây bà đã theo học ngành y ở Đại học y Lisbonne và Coimbra. Bà tốt nghiệp với tấm bằng Cử nhân. Thơ Alda Lara giàu cảm ...

Aleksey Konstantinovich Tolstoy Алексей Константинович Толстой

Aleksey Konstantinovich Tolstoy (1817-1875) là bá tước, nhà văn Nga, viện sĩ thông tấn Viên hàn lâm khoa học Peterburg. Tác giả các ca khúc, thơ châm biếm, tiểu thuyết lịch sử. Tác phẩm: - Công tước Xerebrianưi (tiểu thuyết) - Pie Đại Đế (tiểu thuyết) - Cái chết của Ivan Groznưi (kịch) - Sa hoàng ...

André Velter

André Velter sinh năm 1945, là nhà văn, nhà viết tiểu luận, nhà thơ Pháp. Sinh ở tu viện Signy trong vùng Ardennes. Học ở Charleville và Paris. André Velter đã xuất bản cuốn sách đầu tiên (Aisha-1966). Rất nhiều tập thơ sau đó của nhà thơ cũng được xuất bản tại các nhà xuất bản Gallimard, Fata ...

Bùi Văn Nguyên Vân Trình, Hùng Nam Yến, Khuê Hoa nữ tử, Tú Gầy

Bùi Văn Nguyên (1918-2003) là nhà giáo, nhà văn, nhà thơ và dịch giả văn học Việt Nam. Ông có các bút danh: Vân Trình, Hùng Nam Yến, Khuê Hoa nữ tử, Tú Gầy. Ông quê ở làng Hưng Vận, xã Nghi Hưng, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, thuở nhỏ từng học ...

Antoine de Saint-Exupéry

Antoine de Saint-Exupéry (1900-1944), tên đầy đủ Antoine Marie Jean-Baptiste Roger de Saint-Exupéry, Bá tước Saint-Exupéry, sinh ra ở Lyon, Pháp, phi công, nhà văn, tác giả cuốn chuyện nổi tiếng Petit Prince (Hoàng tử bé con). Năm 1934 ông đã đến Việt Nam làm phóng viên của tờ báo Paris-Soir (Paris ...

Bùi Đức Khiêm

Bùi Đức Khiêm là nhà thơ, nhà văn, nhà báo. Ông là nguyên tổng biên tập báo Công thương. Ông có nhiều thơ cho thiếu nhi. Thơ đã in: - Cái lược của gà trống (NXB Văn hoá dân tộc, 2009)

Điền Ngọc Phách

Điền Ngọc Phách (1943-) bút danh Văn Giang, Thuý Sơn, quê ở Ninh Bình. Ông là nhà thơ, nhà văn. Đã đoạt một số giải thưởng như Giải thưởng tài hoa (cuộc thi thơ tứ tuyệt), chuyên san Tài hoa trẻ (Giáo dục thời đại, 1996-1998); hai giải B - giải thưởng văn học năm năm của tỉnh (1991-1995), ...

Đinh Liệt 丁列

Đinh Liệt 丁列 (?-1471) là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam. Gia phả họ Đinh Danh ở Thái Bình nói rằng ông là dòng dõi của Nam Việt vương Đinh Liễn con vua Đinh Tiên Hoàng. Đinh Liệt cùng anh ruột là Đinh Lễ là cháu gọi Lê Thái Tổ bằng cậu. Ông khi còn ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...