18/06/2018, 15:21

Vương quốc của người Frank

Tác giả : hongsonvh Vào thời kỳ xuy vong của đế chế La Mã, các tỉnh của đê chế ở xứ Gaul và vùng sông Rine luôn bị tràn ngập bởi những bộ lạc người Germany, lý do có thể là do cuộc sống du canh du cư hoặc do sức ép của người Hun từ vùng Trung Á ( Người Hun bị Tần Thủy Hoàng xây ...

481to814FrankEmpire

Tác giả : hongsonvh

Vào thời kỳ xuy vong của đế chế La Mã, các tỉnh của đê chế ở xứ Gaul và vùng sông Rine luôn bị tràn ngập bởi những bộ lạc người Germany, lý do có thể là do cuộc sống du canh du cư hoặc do sức ép của người Hun từ vùng Trung Á ( Người Hun bị Tần Thủy Hoàng xây Trường Thành rồi Hán Quang võ Đế đánh đuổi không tràn xuống phía Nam, nên đã tràn ngược lên phía Bắc làm một số bộ lạc người German phải di cư vào vùng của người La Mã). Có lẽ ngay từ trước khi họ bắt đầu di cư từ quê hương của họ ở miền bắc châu Âu, bản thân người German đã có ít nhiều khác biệt trong cả ngôn ngữ và tập quán. Tuy nhiên có hai nhóm chính của chủng người này đó là người German phương Tây– như người Saxon, Suevi, Frank và Alemanni – họ là những nông dân, sống trong những khu định cư lâu dài và trong các làng mạc được tạo nên bởi những túp lều nguyên thủy bằng gỗ và tự nuôi sống mình bằng canh tác nông nghiệp. Người German ở phía Đông như người Lombard, Vandals và Goth – chủ yếu sống bằng du mục cưỡi ngựa và chăn nuôi gia súc. Nhà sử gia La Mã Publius Cornelius Tacitus (55-120 AD) đã mô tả những người German là những người đàn ông cao lớn với mái tóc màu đỏ hoặc vàngvà đôi mắt xanh dữ dội và là những người thích chiến tranh, thích tiệc yến hoang dã và thiếu kiên nhẫn và là những người cực kỳ yêu tự do – họ đóng một phần quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh phương Tây. Dù là du canh du cư hay định cư,tất cả các bộ lạc German đều coi chiến tranh là điều cần thiết để thay thế cho cuộc sống mục hay các mùa vụ nông nghiệp.

Về tôn giáo họ không có chùa chiền và nhà thờ mà thường thờ phụng và hiến tế cho các vị thần linh thiêng của họ trong các lùm cây. Các vị thần chính mà họ thờ phụng là Tiu, Wodan, Thor vàFreya, sau này trở thành tên của các ngày trong một tuần của người châu Âu, đó là thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu. Khi họ xâm nhập vào đế chế La Mã, người Germany đã chuyển đổi theo Thiên chúa giáo. Có rất ít các thông tin nói về các quy mô của sự chuyển đổi tôn giáohoặc những lý do cho sự thành công nhanh chóng của họ,nhưng dần dần từ những tôn giáo man rợ ngoại giáo họ đã chuyển sang đức tin Thiên chúa giáo – hoặc theo trường phái Rome chính thống hoặc theo các biến thể của Ki tô tà giáo ( Christianity Arianism) mà coi Chúa Kitô là không thực sự thiêng liêng và điều này đã khuấy động những can qua lớn trong Giáo Hội. ( trích từ dịch từ quấn Medieval Armies and Weapons in Western Europe trang 14)

Như vậy theo quấn sách này thì những tộc người Saxon, Suevi, Frank, Lombard, Vandals và Goth … đều xuất phát từ các bộ tộc người German ở Bắc Âu tràn xuống rồi lại bị người Hun đẩy về phía Tây. Có vẻ như là người Vandal là những người đầu tiên trong chủng tộc German ùa vào biên giới của đế chế La Mã ( ở cả phía Đông và phía Tây) nhưng vì Đông đế chế còn quá mạnh nên họ phải dạt về phía tây, tiếp đó là người Visigoth và Ostrogoth. Ban đầu những bộ tộc này ở nhờ đất của Rome, đi lính là làm phên dậu cho triều đình Rome nhưng khi thấy triều đình Rome quá nhu nhược thì họ cũng tiếm quyền luôn, không những vậy các tộc người này còn luôn đánh lẫn nhau để tranh giành ảnh hưởng. Người Vandal bị người Visigoth đánh bại và xua sang tận Bắc phi, người Ostrogoth dưới sự lãnh đạo của Theodoric cũng ra sức khuynh đảo Rome. Vào những năm 30 của thế kỷ thứ 6 SCN Hoàng Đế Justinian của Đế chế Đông La Mã cử danh tướng Belisarius mang quân về phía Tây đánh bại các rợ Vandal, Visigoth và Ostrogoth rồi thu hồi lại cương thổ của đế chế. Nhưng sau khi Hoàng Đế Justinian qua đời thì bởi nhiều lý do biên giới của Đế chế dần bị thu hẹp lại như ban đầu.

Vào lúc này bố trí của các bộ tộc thuộc chủng người German ở phía Tây Âu là như sau. Phía xứ Gaul – thuộc quyền kiểm soát của Đế chế la mã – cho tới phía tây của sông Rhine là các tộc người Visigoth, Frank, Burgundy… những tộc người ít nhiều bị ảnh hưởng của nền văn minh La Mã. Ở phía Đông sông Rhine (nơi mà bàn tay của Đế chế không thể với tới ) là tộc người Saxon, đây là tộc người vẫn còn man rợ, phải mất nhiều thế kỷ sau đó Hoàng đế Charlemagne mới thuần phục được các bộ tộc người này.

Như vậy ta có thể thấy rằng những người Frank là thuộc chủng tộc German, Người Frank ban đầu là những nhóm bộ lạc lỏng lẻo thuộc chủng tộc German chiếm giữ các vùng đất của phía Bắcsông Rhine kéo dài từ vùng Mayence đến biển Bắc.Họ luôn luôn thành công trong việc chống lại các đợt tiến công của người La Mã trong thế kỷ thứ 2 và 3 và cuối cùng đã bắt đầu những cuộc di cư dữ dội xuống phía Nam mà cuối cùng đã tạo thành những quốc gia Hà Lan, Bỉ và miền bắc nước Đức sau này. Nhiều người trong số họ đã tự nguyện ra nhập đội ngũ quân đội La Mã như các lực lượng đồng minh và tạo thành một bức tường thành giữa xứ Gaul và đám ngườiman rợ hung dữ cuối cùng đổ xuống từ phía Bắc. Vào những thời khắc cuối cùng của Đế chế Tây La Mã, họ đã xâm chiếm Gaul. Họ không thực sự cần phải di chuyển (vì lúc này họ đã định cư tại xứ này từ lâu), thay vào đó họ chỉ mở rộng lãnh thổ của mình và họ cũng không bao giờ bị mất liên lạc với quê hương của họ ở bên ngoài sông Rhine. Trong số những vương quốc của người thuộc chủng German được thành lập trên tàn tích của đế quốc Tây La Mã chỉ có vương quốc Frank là duy nhất tồn tại được. Nó cũng là nguồn gốc của hai quốc gia quan trọng nhất châu Âu: Pháp và Đức. Cái tên Frank đến từ từ “ thẳng thắn“ ( Có thể còn có nghĩa là “dũng cảm” ) mặc dù đặc điểm của người Frank thủa ban đầu thực sự rất khác xa so với người dân Pháp hiện đại.Vào ngày nay nước Đức vẫn có một tỉnh có tên là Franconia, và một thành phố trực thuộc được gọi là Frankfurt ( pháo đài của người Frank).

Clovis I của triều đại Merovingian

Clovis (C. 466-511) là Vua đầu tiên của người Frank người đã thống nhất tất cả các Bộ tộc Frank theo sự cai trị của ông. Ông cũng là vị vua người Công giáo chính thống đầu tiên cai trị xứ Gaul (Pháp). Ông là con trai của Childeric I và Basina. Năm 481, khi ông mười lăm tuổi, ông kế vị cha mình.Bộ tộc Salian Frank là một trong hai bộ tộc Frank chiếm đóng khu vực phía Tây của vùng hạ Rhine, Trung tâm của họ ở một khu vực được gọi là Toxandria, vùng ở giữa Meuse và Scheldt (Nay là Hà Lan và Bỉ). Căn cứ của Clovis ở phía tây nam của vùng này, xung quanh Tournai và Cambrai dọc theo biên giới hiện đại giữa Pháp và Bỉ. Clovis đã chinh phục các vương quốc Salian Frank láng giềng và tự lập làm vua duy nhất của của người Frank Salian trước khi chết. Ngôi nhà thờ nhỏ nơi mà ông được rửa tội bây giờ có tên là Saint-Remi, và một bức tượng ông được rửa tội bởi Saint Remigius có thể còn ở đó. Clovis và vợ là Clotilde được chôn trong Nhà thờ St Genevieve (St Pierre) ở Paris. Một phần quan trọng trong di sản của Clovis là ông đã làm xuy giảm sức mạnh của người La Mã khi đánh bại lực lượng họ ( dưới sự chỉ huy của Syagrius) trong trận đánh nổi tiếng – trận Soisson.

Clovis chuyển đổi sang Công giáo La Mã, đây là điều khác với với những thủ lĩnh người Goth khác thường theo Công giáo Arian (một nhánh Công giáo nhưng bị coi là theo tà thuyết) đang cai trị xứ Gaul lúc đó, là do sự xúi giục của vợ ông – Clotilde – một công chúa người Goth – Burgundi theo Công giáo. Ông được rửa tội tại một nhà thờ nhỏ ở trong hoặc gần vị trí của Nhà thờ chính xứ Rheims, nơi mà hầu hết vua Pháp trong tương lai sẽ đăng quang. Hành động này có tầm quan trọng rất to lớn trong lịch sử của phương Tây và Trung Âu nói chung về sau đó, và cũng tạo điều kiện cho Clovis mở rộng lãnh địa của ông ra gần như tất cả những tỉnh của La Mã thuộc vùng Gaul cổ xưa (tương đương với nước Pháp hiện đại). Ông được coi là người sáng lập Triều đại Merovingian, triều đại cai trị vương quốc Frank trong hai thế kỷ tiếp theo.

Thống nhất các bộ tộc Frank

Năm 486, với sự giúp đỡ của Ragnachar, Clovis đánh bại Syagrius, toàn quyền cuối cùng của Đế quốc La Mã ở phía bắc xứ Gaul, người đang cai trị khu vực xung quanh Soissons – ngày nay là vùng Picardie. Chiến thắng tại Soissons đã mở rộng cương thổ của người Frank đến hầu hết các khu vực phía bắc của Loire. Sau này, Clovis tiến hành một liên minh với người Ostrogoth (Đông Goth) qua hôn nhân bằng việc gả chị gái của mình – Audofleda cho nhà vua của họ, Theodoric the Great. Vào năm 491 ông lại tiếp tục thu được thắng lợi trước những nhóm nhỏ người Thuringian ở phía đông của vùng lãnh thổ của người Frank. Sau đó, với sự giúp đỡ của các vua Frank chư hầu khác ông suýt đánh bại người Alamanni (cũng là một tộc trong chủng người German) trong Trận Tolbiac.

Vua Công Giáo

Clovis trước đó đã cưới một công chúa Burgundy theo Công giáo tên là Clotilde (493) và theo Gregory of Tours, dường như là kết quả của chiến thắng của ông tại Tolbiac (truyền thống được đặt ra từ năm 496), ông đã theo đức tin của vợ. Ông chuyển đổi sang thờ chính thống Kitô Chúa Ba Ngôi khác với những vị vua người Đức khác cùng thời với ông, chẳng hạn như những vua người Visigoth (Tây Goth) và người Vandal, những người này chuyển từ dị giáo sang Kitô giáo Arian (bị Kitô giáo chính thống cho là tà đạo). Nó ( Thiên Chúa giáo Ba Ngôi) cũng đảm bảo cho ông được sự ủng hộ của các tầng lớp quý tộc Công giáo Gallo-Roman trong những chiến dịch sau này của ông nhằm vào những người Visigoth, để đẩy họ ra khỏi miền nam xứ Gaul năm 507 (việc ông xâm lược các vương quốc khác của Visigoth cũng tương đương với việc ông thành trừng dị giáo -> được sự ủng hộ của nhà thờ -> ông liên tục thắng trận).

Clovis được rửa tội tại Rheim vào Giáng sinh 496, 498 hoặc 506 bởi Saint Remigius. Việc Clovis chuyển sang Công giáo La mã đã tăng cường mối liên kết giữa đa số dân cư theo Công giáo với bản thân ông ta. Tuy nhiên Bernard Bachrach (một nhà viết sử) đã lập luận rằng sự chuyển đổi này đã làm ông bị xa lánh bởi các vua chư hầu người Frank khác và làm suy yếu vị thế quân sự của ông trong vài năm tiếp theo
Mặc dù ông đã đánh một trận tại Dijon trong năm 500, Clovis đã không thành công trong việc chinh phục vương quốc Burgundian. Có vẻ như bằng cách nào đó ông đã có được sự hỗ trợ của Arvernian trong những năm tiếp theo, với sự giúp đỡ của họ ông đã đánh bại vương quốc Toulouse của người Visigoth trong Trận Vouillé (507) và loại bỏ hoàn toàn quyền lực của người Visigoth ở Gaul và đẩy họ đến Hispania và Septimania (sau đó vương quốc của người Visigoth đã bị người Moor tiêu diệt ); Các trận chiến tiếp theo mang thêm phần lớn vùng Aquitaine vào vương quốc của Clovis. Sau đó ông lập Paris làm thủ đô của mình và thành lập một tu viện dành riêng cho các Thánh Peter và Paul ở bờ phía nam của sông Seine. Sau đó nó được đổi tên thành Sainte-Geneviève Abbey để vinh danh vị thánh bảo trợ của Paris.
Theo Gregory of Tours ( nhà viết sử đương thời), sau Trận Vouillé, Hoàng đế Byzantine Anastasius I, đã ban cho Clovis danh hiệu consul. Từ tên củaClovis không còn xuất hiện trong consular lists, có thể ông đã được ban cho chức suffect consulship.

Các chiến dịch của Clovis

Gregory of Tours ghi lại hàng loạt các chiến dịch của Clovis sau chiến thắng của ông tại Vouillé để loại bỏ các vua Frank khác bao gồm Sigobert the Lame và con trai Chlodoric – Chararic, một vị vua của Salian Frankb – Ragnachar vùng Cambrai (người giúp Clovis đánh bại Toàn quyền La Mã ở Gaul – Syagrius), anh trai của ông này Ricchar và một người anh nữa của họ – Rignomer vùng Le Mans.

Đôi nét về quân đội của người Frank ở thời của triều đại Merovingian

Lĩnh vực quân sự ở thời nàycó một thay đổi rất lớn so với thời trước đó (thời La Mã), đó là sự mai một đi của các chiến thuật quân sự tinh tế của người Hy Lạp và La Mã và không có bất kỳ một sự cải tiến đáng kể nào về kỹ thuật quân sự. Quân đội của nhà Merovingian bao gồm tất cả những nam giới người Frank, những người phải tự lo lấy vũ khí và trang thiết bị cho mình.

Các binh sỹ người Frank thường không được huấn luyện, vũ khí của họ theo nhưđược tìm hiểu thì khá là đơn giản nhưng nhiều khi cũng rất dị dạng tuy nhiên cũng khá là tốn kém (so với thời đó). Vũ khí của họ thường tương tự như của những bộ tộc người man rợ khác. Những người giàu nhất trong số họ được trang bịmột chiếc mũ chiến bằng sắt, một tấm giáp che ngực, nhưng nói chung là đa số họ không có áo giáp – ngoại trừnhững đồ binh giáp cướp đượctừ các binh sĩ La Mã – hoặc họ cảm thấy khinh bỉ việc mặc áo giáp và cho đó là biểu hiện của sự hèn nhát. Phần chính của cơ thể của họ thường được bảo vệ bởi một lá chắn bằng gỗ tròn hoặc hình bầu dục trong như trong thời man rợ. Trong chiếc lá chắn thường có một chiếc núm nhô ra phía trước. Chiếc núm của chiếc khiên có dạng một chiếc chảo tròn và sâuđược làm bằng sắt và được cố định vào mặt trước của tấm lá chắn, hình dạng của nó giống như một chiếc mũ sắt

Tuy nhiên, người Frank cũng rất sớm có các loại vũ khí tấn công riêng biệt của mình. Đầu tiên trong số này là một chiếc rìu ( búa ) trận mà họ gọi là francisqua.Chiếc búa trận này có thể đượcđược sử dụng trong trong cận chiến nhưng cũng có thể được ném ởtầm hiệu lực khá lớn và rất hiệu quả trong việc tàn sát đối phương – một cú ném búa có thể làm bẹp một tấm lá chắn và dễ dàng giết chết một chiến binh. Do đó, người Anh Điêng – thổ dân da đỏ ở BắcMỹ đã vô tình bắt chước người Frankkhi họphóng chiếc tomahawk (chiếc búa trận – theo tiếng của người da đỏ )với sự khéo léo và chính xác một cách chết người của mình vàokẻ thù của mình. Chiếc francisqua có rất nhiều biến thể về hình dạng. Một số có một cái lưỡi dài và hẹp, hơi cong ở mặt bên ngoài của nó và sâu rỗng ở bên trong.Một số loại khác lại cócái đục trên nửa phần bên kia của chiếc búa trông rất giống với lưỡi dao của người thợ mộc.Loại khác thì lại hơi rỗng, nhỏ và dài,tỷ lệ với kích thước của chúng; loại khác nữa có một cái lưỡi rộng và một chiếc cán ngắn.Câu hỏi là liệu loại bipennis – búa đôiđầu rìu – có tạo ra lợi thế lớncho người Frank,mặc dù nó đã được quy cho là như vậy.Những binh sỹ người Frank ở thời đầu cũng đã chiến đấu với một ngọn thương được gọi là framea. Đây là một vũ khíchủ yếu là vũ khí của những người mounted, và về cơ bản nó khôngbất kỳ điểm khác biệt nào so với các ngọn thương được dùng bởi các kỵ sỹvào lúc đó. Nó được làm từ một thanh gỗ và một đầu nhọn bằng kim loại được cắm vào đầu của thanh gỗ này. Đầu kim loại có rất nhiều hình dạng: hình tam giác, kéo dài,thép gai, lá hoặc hình thoi.

Người Frank cũng có nhiều ngọn lao hạng nhẹ để phóng đi.Một trong những mũi lao có độ nguy hiểm rất cao được gọi là angon.Hoàn toàn tương tự như loại laopilum của người Roman, đó là một loại lao móc– dài khoảng sáu ft. Nó có một cái cổ dài và mảnh mai làm bằng sắt được gắn trên một cây gỗ. Gần phầnmũi nhọn, nó có hai ngạnh sắt hoặc lưỡi dao cong nhỏ ở mỗi bên. Angon là một vũ khí chết người và gây ra những vết thương khủng khiếp;khi cắm được nó vàotrong phần thịt mềm của kẻ thù thì nó chỉ có thể được lấy ra với rất nhiều khó khăn, đau đớn và nguy hiểm. Đối phương có thể ngăn chặn các cú đánh bằng chiếclá chắn của mình, nhưng nếu chiếc angon vẫn bị cắm vào chiếc lá chắn của mình, các lao móc kéotrên mặt đất, gây lúng túng và làm suy yếu và tước đi khả năng phòng thủ của đối phương. Người Frank thời ban đầu cũng dùng một con dao lớn (Trung quốc gọi là khoái đao) có một lưỡi sắc dài hai mươi inch đượcgọi là scramasax. Họ cũng còn có một loại kiếm lớn hơn – khoảng ba mươi hoặc ba mươi hai inches-một loại vũ khí được đặc quyền dành cho những người chỉ huy, những người có một vị trí chính thứcvà là những quân nhân thiện chiến. Chiếc scramasax có dạng,rộng, thẳng, đao hai lưỡi nhọn sắc tại mũi.Nó có rất ngắn qua thanh, kẹp thẳng, và một nhỏ,đập túi bụi hơi sưng. cán kiếm có thể được trang trí bằngkhảm làm việc trong đồng, và vũ khí được giữ trong một kim loại,gỗ, hoặc cầm vỏ kiếm da. Các chiến binh Frank đời đầu chiến đấuchủ yếu như là những lính bộ binh và chỉ có những viên chỉ huy và những người giàu nhất trong số các chiến binh và các vệ sĩ của họ mới được vung vinh trên lưng ngựa.

Quân đội của nhà Merovingian được điều khiển theo các tậpquán của chủng người German. Nó không hẳn là một quân đội mà nó thực sự là một băng nhóm củanhững chiến binh vô tổ chức, có số lượng chắc chắn không quá đông, kém kỷ luật,có sức chiến đấu không quá cao và những người này sẽ chiến đấu theo mệnhlệnh của vua. Trong nửa sau củathế kỷ thứ 7việc điều hành binh sỹ thường được giao cho các chỉ huy cấp cao, những người được gọi là graven (bá tước) và herzogen (công tước). Tình trạng của các chiến binh dường như đã thay đổi một cách trực tiếp do mức độ ảnh hưởng của La Mã trên lãnh thổ của họ.Trường hợp các truyền thống La Mã đã được gần như lòai người sỉ nhục, cácchiến binh đã nắm giữ một vị trí danh dự và nhanh chóng trở thànhtầng lớp quý tộc. Nơi mà văn hóa La Mã đã để lại một điểm không thể xóa nhòa là các chiến binh ban đầu ở cấp thấp đã nhận được không nhiều ngoài thực phẩm và quần áo từlãnh chúa của họ. Tuynhiên tình trạng của các chiến binh Frank được cải thiện dần trong các thế kỷ thứ 7 và thứ 8. Cải thiện này một phần là do sự cực kỳđơn giảncủachính phủ của người German. Không cósự phân biệt giữa phục vụ công chúng và cho tư nhân. Những người giữ ngựa của các chỉ huycũng như những người giữ ngựa cho những thành viên của một nhóm mà nhà vua nhận sự cố vấn của họ hàng ngày. Người giữ vũ khí được hưởng lợi ích từ vị trí của mình như là một thành viên trong gia tộc. Quân đội không được huy động thường xuyên mà được huy động theo nhu cầu cho một chiến dịch nào đó.

Vương quốc được tạo lậpbởi lòng trung thành của cá nhân các chiến binh quý tộc với nhà vua của họ và khả năngcủa các nhà quý tộc trong việc chỉ huy và điều hành những người trung thành của họ. Không có ý tưởng về lòng trung thành với quốc gia, với Roman res publica (công chúng La Mã ) duy trì các phúc lợicông. Các nhà vua Merovingian và sau đó là Carolingian về cơ bản vẫn là các nhà lãnh đạo chiến tranh. Nhà vua và các sỹ quan của ông ta thực sự là một nhóm bạn bè cá nhân những người bị ràng buộc với nhau bằng lòng trung thành, một phiên bản comitatus cũ của chủng ngườiGerman. Khi quá yếu hoặc không được lòng dânvị vua sẽ không thể giữ đươc lòng trung thành, các bá tước có xu hướngtrở nên nổi loạn hay độc lập. Biên giới phía nam của vương quốc Merovingiansbị đe dọa bởi một kẻ thù khủng khiếp, những kẻ chinh phục người Hồi giáoxuất hiện vào thế kỷ thứ 8.

Tranh vẽ thời phục hưng tả cảnh Clovis dạy cháu trai mình phóng búa trận – một trong những kỹ năng chiến đấu của người Frank –

Những năm sau đó và cái chết của Clovis

Ngay trước khi chết, Clovis yêu cầu hội đồng giám mục xứ Gaul phải tiến hành hội họp ở Orléans để cải cách giáo hội và tạo ra một liên kết mạnh mẽ giữa Hoàng gia và các giám mục Công giáo. Đây là Hội đồng Công giáo Đầu tiên của Orléans ( the First Council of Orléans). Ba mươi ba vị giám mục đã ủng hộ và thông qua ba mươi mốt điều luật về nhiệm vụ và nghĩa vụ của các cá nhân, quyền hạn của nơi tôn nghiêm và kỷ luật của Giáo Hội. Các điều luật được áp dụng một cách bình đẳng đối với người Frank và người La Mã, sự bình đẳng lần đầu tiên được thiết lập giữa kẻ chiến thắng và người bị chinh phục. ( Đây là điều hơn hẳn của nhà nước sơ khai của người Frank so với nhà nước La Mã trước đó – khi họ coi chỉ có người tự do mới có quyền công dân còn người nô lệ chỉ là các công cụ biết nói ).

Theo truyền thống Clovis I được cho là đã chết vào ngày 27 tháng 11 năm 511, tuy nhiên những tài liệu từ Liber Pontificalis cho thấy rằng ông vẫn còn sống trong năm 513. Sau khi chết, xác của ông được bảo quản tại Nhà thờ Saint Denis gần Paris.

Sau khi ông chết quyền quản lý vương quốc của Clovis được phân chia cho bốn người con trai của ông: Theuderic, Chlodomer, Childebert, và Clotaire. Sự phân vùng này tạo ra các đơn vị chính trị mới của của vương quốc là Rheims, Orléans, Paris và Soissons và cuối cùng đã tạo ra sự chia rẽ và thành bốn vương quốc của người Frank: Aquitaine, Neustria, Burgundy và Austrasia cho đến khi kết thúc triều đại Merovingian (năm 751).


Bản đồ vương quốc của người Frank sau cái chết của vua Clovis

Di sản của Clovis

Clovis được nhớ tới bởi đã tạo ra ba thành tựu chính:

  1. Thống nhất các bộ tộc Frank trong vùng lãnh thổ của mình,
  2. Cuộc chinh phục của ông tại xứ Gaul và
  3. Chuyển đổi của ông sang niềm tin Kitô giáo.

Bằng hành động đầu tiên, ông đảm bảo cho cuộc sống của người dân của mình ở trong biên giới xứ Gaul, một điều mà không một vị vua chư hầu nào có thể thực hiện được. Bằng hành động thứ hai, ông đặt nền móng cho một nhà nước – quốc gia sau đó: nước Pháp. Cuối cùng, với hành động thứ ba, ông tự làm cho mình chở thành đồng minh của giáo hoàng và chở thành người bảo vệ của người dân, những người chủ yếu là theo Công giáo.

Tể tướng Charles Martel – người bảo vệ các vương quốc Frank trước nạn hồng thủy Hồi giáo và người sáng lập ra một vương triều mới của người Frank – vương triều Carolingian

Charles Martel có biệt hiệu là Charles the Hammer (cái búa ), là một nhà lãnh đạo quân sự và chính trị của vương quốc Frank, người giữ chức quan tể tướng ( Mayor of the Palace dịch sát nghĩa là – Điện tiền Chỉ huy xứ – nhưng thực chất là chức quan to nhất trong cung vua -> tạm dịch là Tể tướng) dưới thời vua Merovingian, ông là người cai trị trên thực tế trong khoảng năm 737 đến cuối cuộc đời ông, với các tước hiệu Công tước và Hoàng tử của vương quốc Frank. Năm 739, ông được đề nghị ban cho danh hiệu Consul từ Đức Giáo Hoàng nhưng ông đã từ chối. Ông được nhớ tới như là người chiến thắng trong Trận Tour năm 732, tại trận này ông đã đánh bại một cuộc xâm l.ư.ợ.c của người Hồi giáo (từ phía Tây Ban Nha sang) và chặn đứng việc mở rộng về phía bắc của Hồi giáo ở phía Tây Âu.

Là một vị tướng cực kỳ thông minh ông chỉ bị thua có một trận chiến trong sự nghiệp của mình ( Trận Cologne). Ông là một trong những nhân vật tiêu biểu của thời Trung cổ, và là người thực sự khuếch trương chế độ phong kiến và đặt nền móng cho Đế chế Carolingian. Ông cũng là ông nội của Hoàng Đế Charlemagne.

Sinh ra và lớn lên

Martel được sinh ra ở Heristal (ngày nay là nước Bỉ), là con trai ngoài giá thú của Tể tướng, công tước Pépin II và bà vợ lẽ của ông – Alpaida. Câu chuyện sau đây kể về Charles và nguồn gốc cái tên của ông ta: năm 676, Pépin và vợ là bà Plectrude đang nói chuyện riêng với nhau thì họ bị chen ngang bởi một sứ giả người đưa tin rằng người tình của Tể tướng – bà Alpaida – đã sinh được một cậu con trai ở Herstal. Nhận được tin này và sợ nó sẽ kích động sự phẫn nộ của Plectrude, ông ta quyết định không công bố trực tiếp thông tin này mà thay vào đó ông nói: ” Nhà vua muôn năm, nó là một carl “. (Carl – cậu con trai) nhưng sau đó Pépin thấy vẻ thận trọng của bà vợ liền chối bỏ luôn tin nhắn này và nói như sau: ” carl, có phải không? Hãy gọi nó như vậy ” và theo truyền thuyết này thì đứa trẻ được đặt tên là” Carl “. Ở các nước nói tiếng Gemarny ông (cậu bé con) được biết đến như Karl Martell. Bà Alpaida sau này cũng sinh cho Pépin một người con khác – Childebrand ( câu chuyện này cũng hơi giống chuyện Tào Tháo khi bé bị gọi là Tào A man hé hé)

Tranh giành quyền lực

Các vương quốc của người Frank tại thời điểm cái chết của Tể tướng Pépin của Heristal. Lưu ý rằng vùng Aquitaine (màu vàng) nằm bên ngoài quyền lực của Arnulfing và Neustria cùng với Burgundy (màu hồng) thống nhất để chống lại Arnulfing như là một cơ quan quyền lực cao nhất. Chỉ có Austrasia (màu xanh) là ủng hộ chế độ Tể tướng Arnulfing, Tể tướng đầu tiên là Theudoald sau đó là Charles. Lưu ý rằng các công quốc của người Đức ở phía đông sông Rhine trên thực tế là ở ngoài quyền kiểm soát của vương quốc Frank vào lúc này.

Tháng 714, Pépin của Heristal chết. Trước khi chết, ông đã, với sự thúc giục của vợ ông – Plectrude, chỉ định Theudoald, cháu trai được sinh ra bởi con trai của họ – Grimoald, làm người thừa kế mọi quyền lực của mình. Điều này đã ngay lập tức bị phản đối bởi các nhà quý tộc vì Theudoald mới là một đứa trẻ chỉ có tám tuổi. Để ngăn chặn tình trạng bất ổn này và sợ rằng Charles sẽ ngay lập tức sử dụng lợi thế riêng của mình, Plectrude bắt ông bỏ tù tại Cologne nơi là thủ đô của bà ta. Việc này ngăn cản một cuộc nổi dậy nhân danh ông ở Austrasia chứ không phải là ở Neustria.

Nội chiến từ năm 715-> 718

Năm 715, các quý tộc Neustrian công bố Ragenfrid làm Tể tướng ( Mayor of the Palace ) tạm thời của họ và dường như được sự ủng hộ của Dagobert III, vị vua trẻ tuổi, người trên lý thuyết có những quyền hạn về mặt pháp lý để lựa chọn một vị Tể tướng, mặc dù thời gian này triều đại Merovingian đã hầu như mất quyền hạn này.

Người Austrasians cũng không ủng hộ lâu dài một người phụ nữ và đứa con trai nhỏ của bà ta. Trước cuối năm đó Charles Martel đã trốn thoát khỏi nhà tù và đã được bầu làm Tể tướng bởi các nhà quý tộc của vương quốc đó (Charles Martel là Tể tướng của vương quốc Austrasia ). Vương quốc Neustrians đã tấn công vương quốc Austrasia và các nhà quý tộc chờ đợi một người đàn ông mạnh mẽ để lãnh đạo họ chống lại các cuộc tấn công của người anh em của họ ( Aquitaine, Neustria, Burgundy và Austrasia là bốn vương quốc tách ra từ vương quốc Frank của Clovis). Năm đó, Dagobert qua đời và người Neustrians tuyên bố Chilperic II lên làm vua mà không có sự hỗ trợ của phần còn lại của những người Frank.

Năm 717, Chilperic và Ragenfrid (Tể tướng và vua của vương quốc Neustrian) cùng nhau dẫn một đội quân tấn công vào Austrasia. Người Neustrians liên minh với một lực lượng xâm lược dưới sự chỉ huy của Radbod, vua của FRISIANS và giao chiến với Charles trong trận chiến ở gần Cologne, thành phố lúc này vẫn nằm trong sự quản lý của Plectrude. Charles có rất ít thời gian để tập hợp những người của mình hoặc để chuẩn bị chiến đấu và kết quả đây là thất bại duy nhất của cuộc đời của ông. Theo các nhà sử học Strauss và Gustave, Martel đã chiến đấu một trận tuyệt vời nhưng ông nhận ra rằng ông không thể thắng vì binh lực quá kém so với đối phương và phải rút lui. Trong thực tế, ông đã phải chạy trốn khỏi chiến trường ngay sau khi ông nhận ra rằng ông không hề có thời gian hoặc đủ người để chiến thắng, nên ông đã cho rút lui đến vùng núi của Eifel để tập hợp người người của mình và huấn luyện họ. Chilperic và Ragenfrid sau đó quay sang vây đối thủ khác của họ trong thành phố và chiếm lấy kho bạc của nó. Kết quả là Chilperic và Ragenfrid đã được công nhận làm vua và Tể tướng ở cả hai vương quốc của người Frank. Plectrude đã đầu hàng thay mặt cho Theudoald.

Thiên tài quân sự

Tuy nhiên tại thời điểm này diễn biến của các sự kiện bắt đầu có lợi cho Charles. Có được sự chuẩn bị thích hợp, ông đã chỉ huy quân đội của mình chiến thắng một trận ở gần Malmedy và thu hồi nó trở về thành một tỉnh của mình và trong trận kế tiếp – Trận Amblève, chỉ có một ít quân của đối phương thoát chết nhưng hoặc phải đầu hàng hoặc phải bỏ chạy. Một số điều đáng chú ý về trận chiến này, trong đó Charles thiết lập các chiến thuật quân sự cho phần còn lại của sự nghiệp của mình: Đầu tiên, ông ta xuất hiện ở nơi kẻ thù của mình ít nhất dự kiến, trong khi họ đạt được thắng lợi và hành quân nhà và có ít quân hơn ông ta. Ông cũng tấn công vào lúc ít được mong đợi nhất ví dụ: vào buổi trưa các khi đội quân vào thời ấy theo truyền thống thường đang nghỉ ngơi (ngủ trưa ?). Cuối cùng, ông tấn công họ theo những cách mà họ ít nhất dự kiến nhất, ví dụ như bằng cách giả vờ rút lui để thu hút đối thủ của ông vào bẫy. Chiến thuật giả vờ rút lui lúc này không được biết đến ở Tây Âu vào thời điểm đó, nó là một chiến thuật truyền thống của phương Đông nó đòi hỏi nhiều hơn nữa về tính kỷ luật của quân đội và các tính toán chính xác về mặt thời gian của các chỉ huy của họ. Charles trong trận chiến này đã bắt đầu thể hiện tài năng quân sự của mình và có thể cũng bắt đầu đánh dấu sự cai trị của ông. Kết quả là hàng loạt các chiến thắng liên tục kéo dài cho đến khi ông chết.

Mùa xuân 717, Charles trở lại vương quốc Neustria với một đội quân và khẳng định ưu thế của mình tại chiến thắng trong Trận Vincy ở gần Cambrai. Ông đuổi vua Chilperic và Tể tướng của ông ta chạy trốn đến Paris, trước khi quay trở lại để đối phó với Plectrude ở Cologne. Ông chiếm lấy thành phố của bà này và cho phân tán người ủng hộ bà ta. Tuy nhiên, ông cho phép cả hai Plectrude và Theudoald trẻ tuổi được sống và đối xử với họ với lòng nhân bất thường ở những người ở thời Dark Ages, lòng thương xót đối với một cựu cai ngục, hoặc một đối thủ tiềm năng là rất hiếm (cũng có thể là các nhà sử gia đã vì quá hâm mộ ông mà nói vậy thôi? ). Ngày sau thành công này, ông tuyên bố Clotaire IV là vua của Austrasia để đối lập với Chilperic và lật đổ Tổng-giám-mục của Rheims -Rigobert, và thay thế ông ta bằng Milo, một người ủng hộ ông suốt đời.

Củng cố quyền lực

Sau khi chinh phục toàn bộ xứ Austrasia, Ông hành quân chống lại Radbod và đẩy ông này trở lại lãnh thổ của mình, thậm chí buộc ông này phải dâng vùng đất Tây Frisia (Sau này là Hà Lan). Ông cũng đã đẩy người Saxon trở lại vùng Weser và do đó bảo đảm biên giới của vương quốc của mình đương nhiên là trên danh nghĩa của vị vua mới – Clotaire. Năm 718, Chilperic đáp lại Charles bằng cách liên minh với Odo Đại đế (hay còn gọi là Eudes) công tước xứ Aquitaine, người đã tự tách ra độc lập trong cuộc nội chiến vào năm 715, nhưng họ đã một lần nữa bị đánh bại tại trận Soissons bởi Charles. Nhà vua Chilperic chạy trốn với cùng với đồng minh của mình là công tước xứ Aquitaine về phía nam sông Loire và Ragenfrid trốn sang Angers. Ngay sau khi Clotaire IV chết, Odo đã bỏ Chilperic và đầu hàng vua Charles để được công nhận về lãnh địa công tước của mình, đồng thời cũng công nhận quyền lực của Charles trên tất cả các vùng đất của người Frank cũng như khẳng định tính chính đáng về mặt pháp luật của chức Tể tướng Hoàng gia của mình trên tất cả các vương quốc của Frank (năm 718 ).

Các cuộc chiến tranh bên ngoài địa giới xứ sở của người Frank năm 718-732

Những năm về sau hàng loạt các xung đột đã nổ ra. Giữa 718 và 723, Charles đã bảo vệ được quyền lực của mình qua một loạt các chiến thắng: ông đã giành được sự trung thành của một số giám mục và các linh mục quan trọng (bằng cách quyên góp đất và tiền bạc cho Giáo Hộ La Mã), Ông đã chinh phục các xứBavaria và Alemannia và ông cũng đã đánh bại những người ngoại đạo Saxons. ( Vì không thể tràn về phía Tây người Saxon đã tràn về phía Nam vượt biển sang nước Anh và kết quả là ra đời vương quốc của người Anglo-Saxon – việc này ta sẽ bàn sau)

Thống nhất được các vương quốc của người Frank dưới sự lãnh đạo của mình, Charles đã quyết định trừng phạt người Saxons, lúc này vẫn là những bộ tộc man rợ đã từng xâm lược vương quốc Austrasia. Do đó vào cuối năm 718, ông đã tấn công vào các xứ Weser, Lippe, và Ruhr. Ông đã đánh bại họ trong trận Teutoburg Forest. Năm 719, Charles chiếm giữ Tây Frisia mà không có bất kỳ sự kháng cự đáng kể nào từ FRISIANS, người được chọn làm đối tượng (để giết mổ) của người Frank nhưng đã chiếm quyền kiểm soát sau cái chết của Pippin. Mặc dù Charles không hề tin tưởng vào những người ngoại đạo, nhưng người cai trị của họ – Aldegisel (thủ lĩnh của người Saxon) – chấp nhận chuyển sang Thiên chúa giáo và Charles gửi Willibrord – giám mục của Utrecht, được gọi là “Tông Đồ tông đồ của FRISIANS” để chuyển người dân sang theo Thiên chúa giáo. Charles cũng đã làm nhiều việc để hỗ trợ cho Winfrid, người sau này được phong là Saint Boniface – “Tông Đồ của người Đức”


Bản đồ vương quốc của người Frank và các xứ sở lân cận, phía Đông man các xứ Alamania và Barvaria bị sát nhập vào vương quốc của người Frank trong thời của Charles Martel, phía Đông bắc là xứ sở của người Saxon (nước Đức ngày nay) sau bị người cháu của ông là Charlemagne (Charles Đại đế ) sát nhập vào vương quốc của người Frank, phía Nam giáp vương quốc của người Lombard (nước Ý ngày nay) cũng bị Charlemagne đánh bại và tặng cho Giáo hoàng La Mã, phía tây là vương quốc của người Visigoth ( Tây Ban Nha ngày nay ) bị người Hồi giáo Moor tiêu diệt.

Khi Chilperic II qua đời vào năm sau (720), Charles chỉ định người thừa kế ông là con trai của Dagobert III lên làm vua Theuderic IV của vương quốc Neustrian, người mà lúc đó vẫn còn là một trẻ vị thành niên và ở ngôi từ năm 720-> 737. Charles bây giờ chỉ định các vị vua người mà ông sẽ phục vụ, Rois fainéants (Hoàng tộc của người Frank ) chỉ còn là những con rối trong tay của ông; vào cuối triều đại của ông, họ đã quá trở nên vô dụng khiến ông phát chán mà không buồn bận tâm chỉ định một ông vua nữa. Vào lúc này Charles lại hành quân chống lại người Saxon. Sau đó người Neustrians lại nổi dậy theo Ragenfrid, người lúc này được giữ lại hạt Anjou. Họ đã dễ dàng bị đánh bại (724), nhưng Ragenfrid giao con trai của ông làm con tin để được giữ lại hạt Anjou của mình. Sự kiện này đã kết thúc các cuộc nội chiến trong triều đại Charles.

Sáu năm tiếp theo ông dành toàn bộ của mình để duy trì thế lực của người Frankish trên các vùng đất của các bộ lạc chư hầu Đức. Từ các năm 720 -> 723, Charles đã chiến đấu ở Bavaria, nơi công tước Agilolfing đang dần dần phát triển thành một tiểu vương độc lập, lúc đó ông ta đã liên minh với Liutprand của xứ Lombard. Ông bắt ép xứ Alemanni phải đi cùng phe với ông ta và Công tước Hugbert phải giao nộp quyền hành cho người Frank. Trong giữa các năm 725 -> 728, ông lại tiến vào Bavaria khi mà mối quan hệ về lãnh địa dường như trở nên căng thẳng. Trong chiến dịch đầu tiên của mình, ông đã mang về công chúa Swanachild Agilolfing, người dường như đã trở thành vợ lẽ của ông. Năm 730, ông hành quân chống lại Lantfrid, Công tước của Alemannia, người muốn trở thành một vương công độc lập và giết chết ông này trong một trận chiến. Ông ta bắt Alemanni phải quy phục trước quyền bá chủ của vương quốc Frank và không chỉ định một Lantfrid kế vị. Như vậy miền nam nước Đức một lần nữa trở thành một phần của vương quốc Franki, cũng như miền bắc nước Đức trong những năm đầu tiên của triều đại Charles.

Nhưng vào năm 731, để đảm bảo an toàn cho vương quốc của mình, Charles bắt đầu chuẩn bị chống chọi với các cơn bão sắp đến từ phía nam và phía tây.

Năm 721, Tiểu vương của xứ Córdoba đã tập hợp một đội quân mạnh mẽ từ Morocco, Yemen, và Syria để chinh phục xứ Aquitaine, công quốc lớn ở phía tây nam của xứ Gaul SVG, thuộc chủ quyền của vương quốc Frank, nhưng trong thực tế đã trở nên gần như độc lập hoàn toàn trong tay của Odo Đại đế – Công tước Aquitaine, vì các vị vua Merovingian bị mất hết quyền lực. Người Hồi giáo xâm lược bao vây thành phố Toulouse, thành phố quan trọng nhất của Aquitaine và Odo (còn gọi là Eudes, hoặc Eudo) ngay lập tức phải rời đi để tìm sự giúp đỡ. Ông trở lại sau ba tháng trước khi thành phố đầu hàng và đánh bại kẻ xâm lược người Hồi giáo vào ngày 09 tháng 6 năm 721, vào những gì mà bây giờ được gọi là Trận Toulouse. Chiến thắng quan trọng có được cơ bản là từ kết quả của một sự chuyển động theo kiểu cổ điển bao quanh bởi các lực lượng của Odo. (Sau khi ban đầu đã Odo bỏ chạy, người Hồi giáo trở nên quá tự tin và đang nhẽ phải duy trì lực lượng phòng thủ mạnh mẽ xung quanh vùng bên ngoài doanh trại của họ và liên tục tiến hành trinh sát, họ đã không làm gì) Như vậy khi Odo trở về ông ta đã có thể phát động một cuộc tấn công gần như hoàn toàn bất ngờ vào các lực lượng bao vây, phân tán họ ra tại cuộc tấn công đầu tiên và tiếp tục tàn sát các đơn vị đang nghỉ ngơi hoặc là bỏ chạy mà không có vũ khí hoặc áo giáp.

Do tình hình tại Iberia, Martel tin rằng ông cần một đội quân thường trực (virtually fulltime army) -một đội quân mà ông có thể đào tạo một cách kỹ lưỡng, như là một cốt lõi gồm những cựu binh người Frank và họ sẽ được tăng cường với các lính nghĩa vụ thông thường được tuyển mộ trong thời gian chiến tranh. (trong thời kỳ Đầu Trung Cổ, Quân đội chỉ có thể được tập trung sau khi cây lương thực đã được gieo trồng và trước thời gian thu hoạch – hé hé cũng giống các bác nhà ta tranh thủ thời gian đợi thu hoạch lên HN tham gia đội quân …) Việc đào tạo các loại bộ binh có thể chịu đựng được các đợt tấn công của kỵ binh hạng nặng của Hồi giáo, Charles cần phải sử dụng họ quanh năm, và ông cần phải trả tiền cho họ để các gia đình của họ có thể mua thực phẩm mà họ sẽ kiếm được nếu không phải tập trung trong quân đội. Để có được tiền ông cho thu giữ đất đai và tài sản của nhà thờ và sử dụng các quỹ của Giáo hội để trả lương cho binh sĩ của mình.Vẫn Charles người đã giành được sự hỗ trợ của Giáo Hội bằng cách quyên góp đất đai cho nó nay lại thu giữ một số tài sản của nó vào các năm 724 -> 732. Tất nhiên các quan chức của Giáo hội đã cực kỳ phẫn nộ, và trong một thời gian dài dường như là Charles thậm chí có thể bị tuyệt giao bởi Giáo hội vì các hành động của mình. Nhưng sau đó một cuộc xâm lược ghê ghớm đang sắp xảy ra.

Sự kiện thành Tours

Nhà sử gia Paul K. Davis có viết trong quấn 100 trận chiến quyết định “sau khi Eudes bị đánh bại, ông quay sang sông Rhine để củng cố biên giới phía đông bắc của mình – nhưng trong năm 725 người Hồi giáo đã chuyển hướng hoạt động về phía nam ở Acquitane.” Martel sau đó tập trung sự chú ý của mình vào Umayyads ( quân đội Hồi giáo) cho hầu như phần còn lại của cuộc đời mình. Thật vậy, 12 năm sau đó khi ông đã ba lần cứu xứ Gaul từ các cuộc xâm lược của Umayyad, Antonio Santosuosso ( nhà sử gia) đã lưu ý khi ông tiêu diệt một đội quân của Umayyad được gửi đến để củng cố cho các lực lượng xâm lược trong chiến dịch năm 735, “Charles Martel lại một lần nữa cứu (nước Pháp và châu Âu) ” Người ta đã lưu ý rằng Charles Martel đã có thể tiếp tục theo đuổi các cuộc chiến tranh chống lại người Saxon – nhưng ông đã quyết định để chuẩn bị cho những gì ông nghĩ là một mối nguy hiểm lớn hơn nhiều.

Một điều quan trọng cần lưu ý là tại thời điểm đó người Hồi giáo không biết về sức mạnh thực sự của người Frank, bởi vì nếu biết họ đã có thể xây dựng một đội quân thực sự thay cho một lũ man rợ điển hình đã thống trị châu Âu sau sự sụp đổ của Rome. Họ coi người Frank cũng chi như các bộ lạc German và không quá quan tâm về họ. Các nhà viết sử Ả Rập ở thời đại đó cho thấy rằng nhận thức của Ả Rập về người Franks như là một thế lực quân sự đang trỗi dậy chỉ đến sau trận Tour khi vị Caliph ( Giáo trưởng của người Hồi giáo) thể hiện cú sốc về thất bại thảm khốc mà quân đội của ông ta nhận được.

Chi tiết về trận Tours

Trận Tours (October 10, 732) còn được gọi là Trận Poitiers là một trận chiến xảy ra ở một địa điểm giữa các thành phố Poitiers và Tours, nằm ở phía bắc-trung tâm nước Pháp, gần ngôi làng Moussais-la-Bataille, khoảng 20 km (12 dặm) về phía đông bắc của Poitiers. Vị trí của trận chiến ở gần biên giới giữa vương quốc Frank và công quốc Aquitaine. Trận đọ sức giữa lực lượng kết hợp của người Frank và Burgundy dưới sự chỉ huy của tể tướng Charles Martel chống lại một đội quân Hồi giáo của Umayyad dưới sự chỉ huy của Abdul Rahman Al Ghafiqi – Tướng toàn quyền vùng al-Andalus. Người Frank đã chiến thắng, “Abdul Rahman Al Ghafiqi đã bị giết chết và sau đó Charles mở rộng quyền lực của mình ở phía nam. Các nhà viết sử thế kỷ IX đã giải thích kết quả của cuộc chiến như là một phán xử của Thiên Chúa mang lại ân huệ cho người Công giáo, Các thông tin chi tiết của trận đánh, bao gồm cả vị trí chính xác của nó và số lượng chính xác binh lính đôi bên không thể được xác định một cách chính xác từ các ghi chép còn sót lại. Một điều đáng chú ý là quân Frank thắng trận mà không hề có lực lượng kỵ binh.

Bối cảnh

Trận Tours xảy ra 23 năm sau khi Umayyad bắt đầu các cuộc chinh phục ở châu Âu mà đầu tiên là cuộc xâm lược vào Vương quốc Visigoth theo Công giáo trên Bán đảo Iberia trong năm 711. Sau đó là các cuộc viễn chinh quân sự vào vùng lãnh thổ của người Frank ở xứ Gaul, các tỉnh cũ của Đế quốc La Mã. Các chiến dịch quân sự đã làm cho Umayyad chiếm được các thành phố phía bắc của các công quốc Aquitaine và Burgundy, bao gồm một trận tấn công lớn vào thành phố Bordeaux và một nữa vào Autun. Chiến thắng của Charles được nhiều người cho là đã chặn đứng bước tiến về phía bắc của lực lượng Umayyad từ Bán đảo Iberia và có bảo vệ cho Kitô giáo ở châu Âu trong một thời gian khi mà luật lệ của Hồi giáo đã được ban bố ở các phần còn lại của các đế chế La Mã và Ba Tư trước đây.

Hầu hết các sử gia cho rằng hai đội quân đã gặp nhau ở giữa các con sông Clain và Vienne ở giã vùng Tours và Poitiers. Số lượng binh lính trong từng đội quân không biết đến một cách chính xác. Tài liệu tiếng Latinh của các nhà sử học người Ả rập – Moor năm 754 mô tả trận đánh cụ thể lớn hơn bất kỳ nguồn tài liệu Latin hoặc Ả Rập nào khác, nói rằng “người Austrasia [lực lượng Frank] có số binh lính đông hơn và được vũ trang tốt hơn do vậy đã giết được Abd ar-Rahman ” thông tin này được sự đồng tình của nhiều sử gia Ả Rập và Hồi giáo. Tuy nhiên, hầu hết tất cả các nguồn tin phương Tây đã không chấp nhận như vậy và họ ước tính người Frank có khoảng 30.000, ít hơn một nửa lực lượng Hồi giáo. Các nhà sử gia hiện đại ước tính về lực lượng có thể huy động tại chỗ và số lượng mà Martel có thể mang tới từ vương quốc của mình cùng với lực lượng được tăng cường trong quá trình chiến dịch không thể vượt quá 30.000 nghìn, còn lực lượng Hồi giáo nếu tính tổng số, kể cả các lực lượng đi cướp phá ở nơi khác đã kịp gia nhập vào lực lượng chính trước trận tours có thể lên đến 80.000 người hoặc nhiều hơn. Còn về số thương vong của đôi bên, đã có rất nhiều số liệu trái ngược nhau nhưng các nhà nghiên cứu hiện đại đưa ra một con số ước đoán tương đối hợp lý, khoảng 1.500 người chết ở bên phía người Frank và 12.000 ở phía người Hồi giáo.

Người Moor là ai?

Bước tiến của người Hồi giáo từ xứ sở Hispania

Quân đội Umayyad, dưới sự chỉ huy của Al-Malik ibn Samh al-Khawlani, Thống đốc al-Andalus (nay là xứ Aldalucia của TBN), tràn qua Septimania vào năm 719 sau khi quét sạch đối thủ của mình trên Bán đảo Iberia. Al-Samh lập thủ đô của mình vào năm 720 tại thành phố Narbonne, mà người Moor gọi là Arbūna. Với chiếc cảng quá an toàn của Narbonne, Umayyad nhanh chóng chinh phục các thành phố lớn như Alet, Béziers, Agde, Lodève, Maguelonne và Nîmes của người Visigothic mà không gặp một sự kháng cự đáng kể nào.

Các chiến dịch của Umayyad vào Aquitaine phải chịu thất bại tạm thời tại Trận Toulouse (721), Khi Công tước Odo của Aquitaine (Còn gọi là Eudes Đại Đế) đã phá vỡ cuộc bao vây vào Toulouse, bất ngờ tấn công vào Lực lượng của Al-Malik ibn Samh và giết và làm bị thương rất nhiều ngườI Hồi giáo trong đó có cả chính Tổng đốc Al- Malik ibn Samh. Thất bại này đã không chặn được các cuộc xâm lược của lực lượng Hồi giáo người Moor vào xứ Gaul cũ của Rome, họ tiếp tục chiếm đóng và đặt tổng hành dinh ở thành phố Narbonne để được thuận tiện cho việc cung cấp bằng đường biển và tấn công về phía đông trong những năm 720 khi xâm nhập vào thành phố Autun thuộc công quốc Burgundy trong năm 725.

Bị đe dọa bởi cả Umayyad ở phía nam và người Frank ở phía bắc, trong năm 730 Odo liên minh với đô đốc Berber Ả rập – Uthman ibn Naissa, được gọi là “Munuza” bởi người Frank, vị phó vương của vùng mà sau này là Catalonia. Khi đó để đánh dấu sự liên minh, Uthman đã cưới Lampade con gái của Odo và các cuộc tấn công của người Moor trên toàn rặng núi Pyrenees, biên giới phía nam của Odo đã chấm dứt. Tuy nhiên, năm tiếp theo, Uthman nổi dậy chống lại thống đốc al-Andalus – Abd-al-Rahman, người đã nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy và hướng sự chú ý của mình vài Odo. Abd-al-Rahman đã đưa một lực lượng rất lớn của các kỵ binh nặng Ả Rập và kỵ binh nhẹ Berber, cộng với bộ binh từ tất cả các tỉnh của Tiểu vương Hồi giáo, trong nỗ lực của Umayyad để làm một cuộc chinh phục châu Âu từ phía bắc của rặng núi Pyrenees. Công tước Odo (được gọi là Vua bởi một số người), thu thập quân đội của mình tại Bordeaux, nhưng đã bị đánh bại, và Bordeaux bị cướp bóc. Việc tàn sát các Kitô hữu tại Trận sông Garonne rõ ràng là khủng khiếp; Những kỵ binh của Umayyad sau đó hoàn toàn tàn phá một phần của xứ Gaul, các nhà viết sử riêng của họ nói với các Giáo hữu đạo Hồi rằng ” binh lính đã vượt qua các ngọn núi, dẫm lên trên mặt đất gồ ghề và mức độ, cướp bóc vào đất nước của người Frank và phá hủy tất cả bằng những thanh kiếm, đến nỗi khi Eudo đến để giao chiến đấu với họ ở sông Garonne, ông ta đã phải bỏ chạy. “

Kêu gọi sự chi viện của người Frank

0