Xã hội mở
Bạn đọc cầm trên tay cuốn sách thứ tám của tủ sách SOS. Cuốn Xã hội Mở [Cải cách Chủ nghĩa tư bản Toàn cầu] của George Soros. Đây là cuốn thứ hai của Soros trong tủ sách. Ý kiến về Soros rất khác nhau. Có người lên án ông như kẻ thao ...
Bạn đọc cầm trên tay cuốn sách thứ tám của tủ sách SOS. Cuốn Xã hội Mở [Cải cách Chủ nghĩa tư bản Toàn cầu] của George Soros. Đây là cuốn thứ hai của Soros trong tủ sách.
Ý kiến về Soros rất khác nhau. Có người lên án ông như kẻ thao túng thị trường chứng khoán, kẻ gây ra khủng hoảng tài chính, kẻ tham gia lật đổ. Nhiều người ca ngợi ông như một thiên tài tài chính, người làm từ thiện lớn nhất hành tinh. Ông cho mình là người duy nhất trên thế giới đi ngăn chặn khủng hoảng một cách có mục đích và có tổ chức. Cuốn sách này sẽ giúp bạn đọc hiểu kĩ hơn về ông và về các ý tưởng của ông.
Người ta nói nhiều về hội nhập kinh tế về nền kinh tế toàn cầu. Cơ chế thị trường đã thành công xuất sắc trong giải phóng tài năng kinh doanh và tạo ra của cải. Chủ nghĩa tư bản dựa vào cơ chế thị trường. Nếu chỉ dựa vào cơ chế thị trường và nhấn mạnh thái quá đến các giá trị thị trường, chủ nghĩa tư bản không thể đảm bảo tự do, dân chủ, và pháp trị; có thể, và nó đã dẫn đến những thảm hoạ như hai cuộc Chiến tranh Thế giới, các cuộc khủng hoảng tài chính. Vì sao chúng xảy ra? Làm sao có thể tránh được những thảm hoạ như vậy, hay chí ít làm nhẹ bớt tác động tai hoạ của chúng? Đó là những vấn đề Soros quan tâm. Và xã hội mở là một xã hội có thể làm được điều đó.
Khái niệm “” được Henri Bergson dùng đầu tiên năm 1932, và Karl Popper phát triển và làm cho khái niệm được biết đến rộng rãi trong công trình triết học của ông xuất bản năm 1943. Soros chịu ảnh hưởng mạnh của Karl Popper. Cả trên lĩnh vực thực tiễn và triết lí ông không ngừng cổ vũ cho xã hội mở.
Theo Bergson, xã hội được tổ chức theo các nguyên lí bộ lạc là xã hội đóng; xã hội được tổ chức theo các nguyên lí phổ quát là xã hội mở. Theo Popper, xã hội mở bị đe doạ bởi tất cả các hệ tư tưởng cho là mình có chân lí cuối cùng. Soros đồng ý. Các hệ tư tưởng bộ lạc không còn được coi là cơ sở để tổ chức xã hội hiện đại, và sau Chiến tranh Thế giới II và nhất là sau 1989, các hệ tư tưởng cho là mình có chân lí cuối cùng đã mất uy tín, chủ nghĩa tư bản hiện đại là biểu hiện bị méo mó về xã hội mở. , theo Soros, dựa vào sự thừa nhận rằng chân lí cuối cùng là ngoài tầm với của con người, dựa vào tính có thể sai của con người, dựa vào sự thừa nhận là những kiến trúc do con người tạo ra nhất thiết có sai sót một cách cố hữu; nó là một xã hội dựa trên các nguyên lí phổ quát song không bao giờ hoàn hảo, luôn mở ra cho sự cải thiện. Ông phát hiện ra sự không đồng bộ giữa nền kinh tế toàn cầu và dàn xếp chính trị toàn cầu, sự tồn tại của các quốc gia có chủ quyền. Ông kiến nghị lập liên minh xã hội mở để thúc đẩy phát triển xã hội mở ở từng nước và đặt nền móng cho một xã hội mở toàn cầu.
Cuốn sách có thể bổ ích cho các học giả, các nhà hoạch định chính sách, và tất cả những ai quan tâm đến những vấn đề chính trị và kinh tế thế giới.
Antole Kaletsky đã thực sự là biên tập của cuốn The Crisis of Global Capitalism: Open Society Endangered [Khủng hoảng của Chủ nghĩa Tư bản Toàn cầu: Xã hội Mở bị lâm nguy], giúp tôi tổ chức nội dung và làm cho nó dễ tiếp cận hơn; Roman Frydman đã giúp đỡ đặc biệt về khung khổ quan niệm; Leon Botstein đã nêu ra nhiều điểm lí thú và chúng tôi đã có vài cuộc thảo luận sôi nổi; Anthony Giddens đã cho ý kiến về nhiều hơn một phiên bản của bản thảo; William Newton-Smith đã làm cho tôi hiểu đúng về một số điểm triết học; và John Gray đã khiến tôi đọc lại cuốn Great Transformation [Biến chuyển Vĩ đại] của Karl Polanyi. Những người khác đã có các ý kiến hữu ích bao gồm Robert Kuttner, John Simon, Jeffrey Friedman, Mark Malloch Brown, Arminio Fraga, Tom Glaessner, Aryeh Neier, Daniel Kahneman, Byron Wien, và Richard Medley.
Trong chuẩn bị phiên bản này, tôi đã được sự giúp đỡ có giá trị của Adam Posen ở Institute for International Economics [Viện Kinh tế học Quốc tế], mặc dù ông không hề phải chịu trách nhiệm về các quan điểm của tôi. Yehuda Elkana đã tổ chức một nhóm nghiên cứu ở Central European University [Đại học Trung Âu] tại Budapest, và tôi đã nhận được góp ý bằng văn bản từ Lóránd Ambrus-Lakatos, Fabrizio Coricelli, John Gray, János Kis, Mária Kovács, Petr Lom, và István Rév. Katie Jamieson đã tóm tắt biên bản bằng văn phong sáng sủa quen thuộc của cô. Les Gelb đã tổ chức một cuộc thảo luận ở Council on Foreign Relations [Uỷ ban Quan hệ Nước ngoài] tại New York mà từ đó tôi học được rất nhiều. Những người tham dự bao gồm Elizabeth Colagiuri, Morris Goldstein, Nancy Goodman, Roger Kubarych, Lawrence Korb, Michael Mandelbaum, William Luers, Walter Mead, Peter Osnos, David Phillips, Adam Posen, Gideon Rose, Geoff Shandler, Dimitri Simes, Benn Steil, và Fareed Zakaria. Mort Abramowitz, Martti Ahtisaari, Antony Lester, Charles W. Maynes, Aryeh Neier, Stewart Paperin, Alex Rondos, Cornelio Sommaruga, và Joseph Stiglitz đã tham gia một thảo luận cuối tuần tại nhà tôi. Lord Lester đã nêu ra một số vấn đề quan trọng liên quan đến định nghĩa của tôi về xã hội mở mà tôi đã không giải quyết được để ông thoả mãn. Tôi muốn cảm ơn tất cả những người đã chịu khó đọc bản thảo ở các giai đoạn khác nhau của sự tiến triển của nó. Họ quá đông để có thể liệt kê, nhưng tôi phải cảm tạ Benjamin Barber, Leon Botstein, Bill Clapp, Jacques de Larosière, Jeffrey Friedman, Roman Frydman, Ekaterina Genieva, Antole Kaletsky, Alex Lupis, Aryeh Neier, Joseph Nye, Andrei Shleifer, John Simon, và F. van Zyl Slabbert, đã gửi góp ý bằng văn bản cho tôi. Justin Leites đã có một vài gợi ý có giá trị ở phút cuối cùng.
Tôi đã rất hài lòng với Peter Osnos và nhóm của ông ở nhà xuất bản Public Affairs và tôi biết ơn Kris Dahl đã đề nghị ông.
Yvonne Sheer đã đánh máy đi đánh máy lại bản thảo không biết bao nhiêu lần, đối chiếu các tài liệu tham khảo, và hoạt động như tổng quản lí dự án. Tôi đã không thể làm xong mà không có cô.
Đây là một cuốn sách về triết học thực tiễn: Nó cung cấp một khung khổ quan niệm có ý định dùng như một chỉ dẫn cho hành động. Tôi đã được khung khổ đó hướng dẫn trong cả các hoạt động kiếm tiền lẫn từ thiện, và tôi tin rằng nó cũng áp dụng cho xã hội nói chung: Nó cung cấp các nguyên tắc chỉ đạo cho một xã hội mở toàn cầu. Đây là một sự đảm đương đầy tham vọng. Để thực hiện nó, tôi sẽ phải đề cập nhiều lĩnh vực và di chuyển trên nhiều mức: triết học, thực tiễn, công cộng và cá nhân.
Ở mức thực tiễn, tôi đã thiết lập một mạng lưới các quỹ từ thiện nhằm cổ vũ cho các xã hội mở. Mạng lưới này bao trùm tất cả các nước của đế chế Soviet trước kia và nó đã lan sang những phần khác của thế giới: Nam Phi, mười nước Nam châu Phi, mười sáu nước Tây Phi, Haiti, Guatemala, Miến Điện, và gần đây hơn Indonesia. Cũng có một Viện [Open Society Institute] ở Hoa Kì. Mỗi quỹ quốc gia có hội đồng quản trị và nhân viên riêng của mình những người quyết định những ưu tiên riêng của họ và chịu trách nhiệm về các hoạt động của quỹ trong nước mình. Chúng hỗ trợ xã hội dân sự; chúng cũng cố gắng làm việc với chính quyền trung ương và địa phương bởi vì một chính phủ dân chủ và hiệu quả là một thành phần cốt yếu của một xã hội mở, nhưng chúng thường bất hoà với chính phủ hoặc với một số hoạt động của nó. Trong một số nước, nổi bật ở Slovakia và Croatia, các quỹ đã thành công trong huy động xã hội dân sự chống lại chế độ áp bức. Ở Belarus và Miến Điện, các quỹ bị cấm và hoạt động từ bên ngoài. Ở Serbia, nó hoạt động trong những hoàn cảnh gieo neo. Ngoài ra, chúng tôi có một mạng lưới các chương trình trong những lĩnh vực mà mạng lưới tham gia tích cực nhất: giáo dục bậc cao và giáo dục phổ thông; thanh niên; pháp trị, tư pháp và hành pháp, bao gồm cả nhà tù; nghệ thuật và các định chế văn hoá; thư viện, xuất bản, và Internet; các phương tiện thông tin; các tầng lớp dân cư dễ bị tổn thương như những người thiểu năng tâm thần; các sắc tộc thiểu số, với nhấn mạnh đặc biệt đến những người di gan; sức khoẻ cộng đồng, lạm dụng rượu và ma tuý; và vân vân.
Tôi có được sự công nhận rộng rãi, thực ra bị cường điệu, như một loại guru tài chính nào đó, nhưng những thành tích của tôi do giữ các quan điểm về các vấn đề chính trị và an ninh được công nhận ít rõ hơn. Thực ra, tôi chỉ là một trong nhiều người hành nghề tài chính; song tôi hầu như là người duy nhất thực hành ngăn chặn khủng hoảng một cách có mục đích và có tổ chức.
Trong cuốn sách này tôi chủ trương rằng các nền dân chủ trên thế giới nên thiết lập một liên minh với mục đích kép, thứ nhất, để cổ vũ cho phát triển các xã hội mở ở riêng từng nước và, thứ hai, để củng cố luật pháp và các định chế quốc tế cần thiết cho một xã hội mở toàn cầu.
Chúng ta sống trong một thế giới được đặc trưng bởi trao đổi tự do về hàng hoá và dịch vụ và thậm chí còn hơn bởi sự di chuyển tự do của vốn. Kết quả là, lãi suất, tỉ giá hối đoái, và giá cổ phiếu ở nhiều nước khác nhau gắn kết chặt chẽ với nhau, và các thị trường tài chính có ảnh hưởng ghê gớm đến tình hình kinh tế ở mọi nơi. Vốn tài chính có được một vị trí đặc ân. Vốn dễ lưu động hơn các yếu tố sản xuất khác, và vốn tài chính thậm chí còn lưu động hơn các dạng khác của vốn. Toàn cầu hoá các thị trường tài chính đã làm giảm khả năng của các nước riêng biệt để đánh thuế và điều tiết vốn vì nó có thể chuyển sang chỗ khác. Căn cứ vào vai trò quyết định mà vốn tài chính quốc tế đóng trong vận may của các nước riêng biệt, nên không phải không thích hợp để nói về một hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu.
Chúng ta có thể nói về thắng lợi của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, song chúng ta chưa thể nói về thắng lợi của dân chủ. Có một sự không xứng đôi nghiêm trọng giữa tình hình chính trị và kinh tế thịnh hành trên thế giới ngày nay. Chúng ta có một nền kinh tế toàn cầu, song những dàn xếp chính trị vẫn dựa vững chắc vào chủ quyền quốc gia. Làm sao có thể dung hoà nhu cầu của một xã hội toàn cầu với các quốc gia có chủ quyền? Đó là vấn đề cốt yếu đối mặt với chúng ta ngày nay.
Chủ nghĩa tư bản và dân chủ không nhất thiết gắn bó chặt chẽ với nhau. Có tương quan nào đó: Tăng các tiêu chuẩn sống và sự hình thành một tầng lớp trung lưu có xu hướng tạo áp lực cho quyền tự do và dân chủ; chúng cũng có xu hướng ủng hộ ổn định chính trị lớn hơn. Song mối liên hệ còn xa mới là tự động. Các chế độ áp bức không nới lỏng sự kìm kẹp của chúng về quyền lực một cách tự nguyện, và chúng thường được trợ giúp và tiếp tay bởi các giới kinh doanh, cả nước ngoài và nội địa. Chúng ta có thể thấy điều này ở nhiều nước, đặc biệt ở những nơi dính đến tài nguyên thiên nhiên như dầu hay kim cương. Có lẽ mối đe doạ lớn nhất đối với quyền tự do và dân chủ trên thế giới ngày nay là từ sự hình thành các liên minh tội lỗi giữa chính phủ và giới kinh doanh.
Đây không phải là hiện tượng mới. Nó thường được gọi là chủ nghĩa phát xít, và nó đặc trưng cho Italy của Mussolini và ở mức độ khác nhau cho nước Đức của Hitler, Tây Ban Nha của Franco, Bồ Đào Nha của Salazar. Ngày nay nó có các hình thức khác nhau, nhưng nó có thể được phát hiện ra ở Peru của Fujimori, Zimbabwe của Mugabe, Miến điện của SPDC, Malaysia của Mahathir, chỉ nhắc tới vài trường hợp. Làm bối rối hơn, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản cũng đã dẫn tới một liên minh tội lỗi giữa giới kinh doanh lớn và chính phủ ở nhiều nước, gồm có Nga. Có thể thấy diện mạo bề ngoài của quá trình dân chủ, song quyền lực nhà nước được hướng trệch làm lợi cho các giới tư nhân. Các nước dân chủ không chú ý nhiều đến tình hình chính trị thịnh hành ở các nước