25/05/2018, 17:16

vú sữa lò rèn

Vú sữa Lò Rèn “Lò Rèn”! Cái tên sao mà …”dao búa kim khí” qua,́ chẳng ăn nhập gì với “thương hiệu” thường thấy của những lọai trái cây vậy mà khi tìm hiểu, thì đó là cả một câu chuyện xúc động về ông thợ ...

Vú sữa Lò Rèn

“Lò Rèn”! Cái tên sao mà …”dao búa kim khí” qua,́ chẳng ăn nhập gì với “thương hiệu” thường thấy của những lọai trái cây vậy mà khi tìm hiểu, thì đó là cả một câu chuyện xúc động về ông thợ Lò Rèn người Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang – người đã có công nhân giống vú sữa ngon: quả to tròn, vỏ phơn phớt vàng hồng, khi aăn có vị ngọt thanh, mát dịu… đã trở thành đặc sản của vùng đất này, và tên gọi Vú Sữa Lò Rèn Vĩnh Kim bắt nguồn từ đó.

Kĩ thuật trồng cây vú sữa Lò Rèn

A. Thời kì mới trồng đến 3 năm tuổi

1. Thời vụ trồng:

Nếu chủ động nước tưới có thể trồng trong mọi thời điểm nào trong năm; tuy nhiên trồng vào mùa mưa sẽ ít tốn công tưới.

2. Làm đất trồng:

- Thiết kế vườn:
+ Vẽ sơ đồ vườn theo mương , liếp để quản lý , chăm sóc ,ghi chép nhật ký canh tác.
+ Đào mương , lên liếp: nếu trồng mới trên đất ruộng nên đào mương sâu 1 – 1 , 5 m , bề mặt liếp rộng 7 – 10 m.
+Sắp đặt hệ thống đê bao , cống bọng để tưới – tiêu chủ động.
+ Trồng cây chắn gió: chú trọng trồng cây chắn gió vì cây vú sữa dễ bị lật gốc , tét nhánh vậy nên cần phải trồng cây chắn gió; đặc biệt là những vườn ở ven biển, sông lớn. Hàng cây chắn gió phải vuông góc với hướng gió thường thổi tới. Hàng cây chắn gió còn giúp giữ độ ẩm cho vườn , cây quang hợp tốt ( do lượng CO2 ổn định hơn ) , tránh được đổ ngã khi có gió lớn , cây thụ phấn và đậu quả cũng tốt hơn.
- Làm đất để lên mô trồng: chọn đất mặt ruộng , đất bùn ao , đất vườn cũ , {xử lý|xử lí} khoảng 1 – 1 , 5 kg vôi/mô , phơi 15 – 30 ngày trước khi trồng.
- Chất mô: theo sơ đồ đã thiết kế , đường kính mô từ 0 , 8 – 1m , cao 0 , 4 – 0 , 7m.
- Trộn phân hữu cơ đã hoai mục với Trichoderma để tăng vi sinh vật đối kháng trong đất để khống chế nấm bệnh. Cũng có thể dùng chế phẩm EM để thúc đẩy phân mau hoai và cung cấp thêm vi sinh vật có ích cho cây trồng.
- Bón phân lót: mỗi mô bón 10–15kg phân hữu cơ hoai ( đã ủ ở phần trên ) , 0 , 3kg super lân , 0 , 1kg DAP .

3. Cách trồng:

a. Mật độ ( khoảng cách ):

Tùy theo chiều rộng mặt liếp mà sắp đặt số hàng cây. Với liếp rộng 7 - 8m thì bố trí trồng một hàng cây ở giữa liếp , khoảng cách 8m/cây , mật độ 12 - 13 cây /1000m2. Với liếp rộng 9 - 10m , trồng hai hàng theo kiểu nanh sấu. Có thể trồng xen rau màu hoặc các laoij cây ăn quả ngắn ngày trong 1 - 3 năm đầu để tăng thu nhập.

b. Cách đặt cây:

Khoét lỗ trên mô vừa với bầu cây con ( khoảng 20 – 25 cm ) , cắt bớt gốc cành ghép ( treo bầu ) , xé bỏ bao nilon ( đựng bầu đất ) , đặt cây con vào hố , dùng dao cạo nhẹ lớp vỏ nơi tiếp xúc giữa cành ghép và gốc ghép lấp đất đến nơi vừa cạo vỏ giúp hình thành 1 lớp rễ mới sau khoảng vài tháng trồng; ém đất chặt , dùng 3 cây cọc để cố định cây con ,chú ý che nắng cho cây.

4. Chăm sóc:

- Dùng rơm tủ gốc để giữ ẩm và ngăn ngừa cỏ dại.
- Làm cỏ để tránh sự cạnh tranh dinh dưỡng , nên cắt bớt cỏ trong vườn , hạn chế việc dùng thuốc diệt cỏ trong vườn cây ăn trái.
- Tưới nước: cần cung cấp nước đầy đủ cho cây vú sữa , mỗi tuần tưới 3 - 5 lần , mỗi lần tưới 20 - 30 lít nước/cây nhất là vào mùa nắng để giảm tỷ lệ cây chết và giúp cây phát triển nhanh đặc biệt trong 3 năm đầu. Nên giữ mực nước ở trong mương cách mặt liếp ít nhất 40 cm.
- Bón phân:
+ Sau khi trồng đến một năm: sử dụng 70–80ml Greenfield 555 tưới gốc + 20g Urê , hoà phân vào nước để tưới , mỗi tháng nên bón phân 1 lần
+ Cây 1 – 3 năm tuổi: bón 1–2 kg hỗn hợp gồm Urê , Greenfield 555 , NPK 16–16–8 ( hoặc 20 – 20 – 15 ) , với tỉ lệ 1:3:1; chia làm 4 lần bón trong năm , lượng phân bón tăng dần theo độ lớn của cây ( năm đầu dùng 1kg phân , sau đó tăng dần )
- Tỉa cành tạo tán: trong các năm đầu nên tỉa cành để cây vú sữa có cành phân bố theo 4 hướng , tạo cho cây có tán tròn đều. Đặc biệt nên tỉa bỏ cành vượt , cành trong tán cây , cành bị sâu bệnh

B. Giai đoạn cây từ 3 tuổi trở lên

1. Tủ gốc giữ ẩm:

Rễ vú sữa thường ăn nông , nhiệt độ của đất cao vào mùa nắng sẽ ảnh hưởng đến bộ rễ , vì vậy cần phải tủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ , cỏ khô để giữ ẩm cho đất. Nên tủ cách gốc để tránh sâu bệnh tấn công.

2. Làm cỏ và trồng xen:

Nên làm cỏ thường xuyên trong các năm đầu để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng và loại bỏ nơi trú ẩn của sâu bệnh. Đến năm thứ tư trở đi tán cây rộng dần và công làm cỏ sẽ giảm. Để giảm bớt công làm cỏ và tưới nước , trong các năm đầu nên dùng rơm rạ phủ gốc và trồng xen một số cây ngắn ngày khác để tăng nguồn thu nhập.

3. Bồi bùn:

Hàng năm cần bồi bùn vào mô trồng , nên phơi khô bùn sau khi vét mương rồi bồi vào mô. Công việc bồi bùn cần tiến hành thường xuyên hàng năm , ngay cả khi cây đã lớn và sau khi định hình được mương liếp hoàn chỉnh. Việc vét mương bồi liếp vừa có thế giúp cải tạo hệ thống mương tưới tiêu , nâng cao dần mặt liếp , vừa có tác dụng cung cấp một phần dinh dưỡng cho cây vú sữa.

4. Tưới tiêu:

Để cây vú sữa phát triển nhanh hơn , cần phải tưới nước đầy đủ nhất là trong những năm đầu. Nếu vườn cây vú sữa chưa có hệ thống đê bao ngăn lũ thì phải bố trí hệ thồng thoát nước tốt vì cây vú sữa không có khả nawg chịu ngập úng.
Giai đoạn cây ra hoa và mang trái tưới nước thường xuyên 2–3 ngày/ lần giúp cây ra hoa , đậu trái tốt hơn.

5. Tỉa cành, tạo tán:

Hàng năm , sau khi thu hoạch , phải vệ sinh vườn bằng cách tỉa bỏ những cành mọc đứng trong tán , cành gãy , cành sâu bệnh , cành khô , già cổi , cành phụ yếu mọc liên tiếp trên cùng một cành chính , cành mọc gần mặt đất; tỉa thấp lại cành chính khống chế chiều cao của cây không quá 4–4 , 5m để tiện chăm sóc và thu hoạch sau này.
Đối với cây quá già cổi: cây cho lá nhỏ , trái nhỏ , chậm ra nhánh mới; để trẻ hóa vườn cây vú sữa này cần cưa bỏ từ 30–60% số cành để cây phát triển cành mới , số cành mới phát triển sẽ cho trái lớn hơn , tốt hơn vào các vụ sau.
Sau mỗi vụ thu hoạch nên cưa bỏ 1–2 cành vươn cao , ít lá và có biểu hiện sinh trưởng yếu, năng suất kém nhất trên tán cây. Cưa ngắn các cành này còn 30–50 cm tính từ gốc cành. Vết cưa nghiêng 45 độ để tránh đọng nước. Sơn phủ bề mặt vết cưa bằng dung dịch sun-phát đồng. Khoảng 15 - 20 ngày sau dưới mỗi vết cưa sẽ phát triển 5 - 15 chồi mới , nên tỉa bớt số chồi mới chỉ để lại 2 - 3 chồi khỏe và ở vị trí đều quanh cành. Khi chồi mới phát triển đến chiều dài 50 - 60cm thì tiến hành loại bỏ đỉnh sinh trưởng để kích thích chồi phân cành.
* Lưu ý xem xét và phòng trừ sâu hại cho cành mới , cành này có khả năng cho trái sau 12 - 18 tháng.

6. Bón phân:

Từ năm thứ tư sau khi trồng , cây vú sữa bắt đầu cho trái; do vậy lượng phân bón cho cây cũng tăng dần lên để đảm bảo đủ dinh dưỡng cho cây. Bón 2 – 3 kg hỗn hợp gồm Urê , DAP , NPK 16 – 16 – 8 ( hoặc 20 – 20 – 15 ) , với tỉ lệ 11; chia làm 4 lần bón trong năm bón vào lúc cây ra hoa , đậu trái , nuôi trái và trước thu hoạch 1 – 2 tháng. Lượng phân bón trên áp dụng cho cây 4 – 5 năm tuổi.
Cây vú sữa từ năm thứ 5 sau khi trồng , bước sang giai đoạn cho trái ổn định , và cũng là bắt đầu thời kì kinh doanh. Nên bón 4 lần phân vào các giai đoạn: sau khi thu hoạch làm gốc để cây chuẩn bị ra hoa , đậu trái , nuôi trái và trước thu hoạch 1 - 2 tháng. Liều lượng phân bón thay đổi , tăng dần theo tuổi cây từ 6 năm đến trên 20 năm ( lúc đầu bón số lượng nhỏ , tăng dần theo từng năm ). Mức phân yêu cầu cho cây 5 năm tuổi như sau :
· Lần 1: Bón vào giai đoạn xử lí ra hoa sớm với 5–10 kg phân hữu cơ hoai/cây và 3 – 6 kg gồm NPK ( 20 - 20 - 15 hoặc 16 - 16 - 8 ) , Urê và phân lân theo tỉ lệ 1/1/1.
· Lần 2: Bón vào thời điểm đậu trái lúc trái bằng {nút áo|khuy áo} với lượng 2 – 4 kg phân/cây gồm Urê và DAP theo tỉ lệ 2/1.
· Lần 3: Bón vào thời điểm nuôi trái , lúc trái có đường kính khoảng 2cm , với 2 – 3 kg phân NPK/cây ( dạng phân như nói trên ).
· Lần 4: Bón vào thời điểm trước thu hoạch 1 – 2 tháng với liều lượng 1 – 2 kg phân NPK/cây.
Các lần bón phân cách nhau từ 2 , 5 – 3 tháng.
Phương pháp bón: Trước khi bón phân nên tiến hành thu dọn tất cả các vật liệu tủ gốc rồi bón lên mặt luống ( mô ) hoặc xới rảnh sâu 5-10 cm ở 2/3 đường kính tán cây , bón phân vào rãnh. Sau khi bón phân nên che phủ gốc bằng các vật liệu hữu cơ và tưới nước liên tục 5-7 ngày cho phân tan vào đất.

7. Thu hoạch:

Từ khi đậu trái đến khi thu hoạch vú sữa là 180 - 200 ngày , mùa thu hoạch vú sữa Lò Rèn tập trung vào tháng 2 và tháng 3 ( dương lịch ). Khi chín vỏ vú sữa Lò rèn có màu hột gà sáng bóng.
Vỏ vú sữa mỏng nên dễ bị giập , trầy sướt; khi chín cuống trái dễ bị sút ra nên khi thu hoạch phải thật nhẹ nhàng và khéo léo , không để trái trực tiếp xuống đất vì nấm bệnh từ đất sẽ xâm nhập vào trái qua cuống hoặc vết thương.
Nên bao trái để tránh trầy sướt khi vận chuyển. Trong thời gian bảo quản, vận chuyển không nên để trái tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời vì sẽ làm tổn thương vỏ trái , không nên che nắng trái bằng tấm nilon vì nilon hấp thụ nhiệt sẽ làm nám vỏ trái.
Khi chất trái vào thùng , vào giỏ…nên lót giấy hoặc vật liệu xốp và không nên chất quá 4-5 lớp /giỏ.

 

Sâu bệnh hại cây vú sữa

1. Sâu đục trái (Alophia sp.- pyralidae):

Sâu gây hại từ khi trái còn nhỏ đến chín. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, con cái đẻ trứng lên vỏ trái, sâu cắn phá vỏ trái, đùn phân ra ngoài làm cho trái mất đẹp, giá bán không cao.
Phòng trị: Sau thu hoạch, tỉa bỏ cành sâu bệnh, cành gãy…giúp vườn cây thông thoáng. Thu gom và tiêu hủy trái bị hại để sâu non không hóa nhộng và gây hại ở lứa tiếp theo. Phun thuốc khi thấy có sâu non xuất hiện bằng các loại thuốc như: Basudin 50ND, Sumi Alpha 5EC, Karate 2,5EC, Cypermap 10EC… liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.

2. Sâu ăn bông (Eutalodes anithivora – Gelechiidae):

Gây hại từ khi bông bắt đầu nhú ra đến khi hoa trỗ nhụy, sâu non đục vào bên trong làm bông bị hư.
Phòng trị: khi phát hiện có sâu hại, phun các loại thuốc có tác dụng lưu dẫn như: Cyber Alpha 50ND, liều lượng theo hướng dẫn trên chai thuốc.

3. Sâu đục cành (Pachyteria equestris - Coleoptera):

Gây hại quanh năm. Con trưởng thành đẻ trứng lên đọt non, sâu non nở ra ăn lòn vào trong cắn phá cành, làm chết cành.
Phòng trị: Thường xuyên thăm vườn, nếu thấy có mọt đổ từ các cành thì dùng que xoi vào lỗ đục và bắt bằng tay hoặc bơm thuốc trừ sâu có tính lưu dẫnvào các lỗ đục, sau đó trám lỗ đục lại bằng đất sét hoặc sáp.

4. Rệp sáp (Pseudococcus sp.):

Có nhiều loài rệp sáp gây hại trên vú sữa. Rệp chích hút lên lá, lên trái…. rệp tấn công từ khi trái còn nhỏ đến khi thu hoạch làm cho trái không phát triển. Ngoài ra, rệp tiết ra mật ngọt, tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển, làm mất phẩm chất trái.
Phòng trị: tỉa bỏ những lá, trái bị nhiễm nặng, dùng máy bơm phun nước lên những chỗ có rệp sáp để rửa trôi rệp. Phun thuốc khi mật số rệp cao. Có thể bổ sung dầu khoáng DC- Tronplus 0.5% để tăng hiệu lực của thuốc.

II. Các loại bệnh hại chính

1. Bệnh thối trái (Do nấm Colletotrichum sp.):

Nấm bệnh tấn công trái từ khi trái còn non đến khi thu hoạch. Ban đầu trên trái có những đốm nhỏ hình tròn màu nâu hoặc nâu đen, sau đó vết bệnh lan rộng ra và các vết bệnh nối tiếp nhau bao phủ cả trái. Trái bệnh thường bị chai sượng và rụng.
Ngoài ra, nấm Lasiodiplodia theobromae cũng làm cho trái bị thối khi thu hoạch, vận chuyển và tồn trữ. Với vết bệnh ban đầu nơi gần cuống trái do thu hoạch không chừa cuống hoặc vỏ trái bị trầy xướt, sau đó vết bệnh lan dần làm hư thối cả trái.
Phòng trị: Vệ sinh vườn, tỉa bỏ và thu gom những trái bị bệnh lại để tiêu hủy. Không nên trồng quá dày, tỉa bỏ cành vô hiệu để giúp vườn thông thoáng, hạn chế nấm bệnh phát triển.
Khi thu hoạch tránh gây bầm giập, trầy xướt trái, không làm rụng cuống trái để giúp vườn thông thoáng, hạn chế sự xâm nhập của nấm bệnh. Cần theo dõi thường xuyên nếu thấy bệnh phát triển nhiều thì phun các loại thuốc như Antracol 70WP, Benlate 50WP, Manzate 80WP, Daconil 75WP, Carben 50SC, Thio – M 70WP…Ngoài ra, xử lý trái bằng nước nóng ở 52o C trong 10 phút cũng ngừa được bệnh thối trái.

2. Bệnh bồ hóng (Do nấm Capnodium sp.):

Nấm bệnh tạo thành từng mảng đen như bồ hóng bám trên mặt lá, trên trái làm giảm quang hợp của lá, làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây. Bồ hóng bám trên trái làm mã trái xấu bán không được giá. Nấm bệnh phát triển trên các vườn vú sữa có rầy mềm, rệp sáp, rệp dính…vì chất thải của rầy, rệp giúp nấm phát triển. Bệnh thường phát triển mạnh trong mùa nắng.
Phòng trị: Không trồng quá dày. Tỉa cành tạo tán hợp lý để vườn cây thông thoáng. Mùa nắng, chú ý phòng trị rệp sáp, rầy mềm, rệp dính, bằng các loại thuốc như Supracide 40EC, Trebon 10EC, Actara…Khi thấy có nấm bồ hóng: phun các loại thuốc có gốc đồng như Coc 85, Copper Zine, Copper B…

0