Về phương pháp luận nghiên cứu văn hóa và con người
Hồ Sĩ Quý , PGS.TS.,Viện Thông tin Khoa học xã hội Tạp chí Triết học Bài viết đề cập và gợi mở nhiều vấn đề liên quan đến phương pháp luận nói chung và phương pháp luận nghiên cứu văn hoá và con người nói riêng. Cụ thể là, tác giả đã đưa ra những ý kiến trao đổi xoay quanh hệ vấn đề: khái ...
Hồ Sĩ Quý, PGS.TS.,Viện Thông tin Khoa học xã hội
Tạp chí Triết học
Bài viết đề cập và gợi mở nhiều vấn đề liên quan đến phương pháp luận nói chung và phương pháp luận nghiên cứu văn hoá và con người nói riêng. Cụ thể là, tác giả đã đưa ra những ý kiến trao đổi xoay quanh hệ vấn đề: khái niệm phương pháp luận, phương pháp luận nghiên cứu văn hóa, phương pháp luận nghiên cứu con người, phương pháp luận nghiên cứu phức hợp, phương pháp luận về khái niệm người Việt, phương pháp luận về tính cách dân tộcnhằm góp phần vào việc nghiên cứu văn hoá và con người một cách đầy đủ hơn, hiệu quả hơn.
I. Về khái niệm phương pháp luận
1. Thực
tiễn nghiên cứu văn hóa và con người ở nước ta mấy chục năm gần đây cho
thấy, thông thường, nói đến phương pháp luận, các nhà nghiên cứu thường
nghĩ ngay đến những phững phương pháp luận đã có, tức là những phương
pháp luận đã được các nhà tư tưởng, các học thuyết, các quan điểm có uy
tín… đề xướng và hoàn thiện ở mức độ nhất định. Công việc của những
người nghiên cứu tiếp theo, do vậy, chỉ là lựa chọn và ứng dụng. Dẫu
cũng không kém phần khó khăn và phức tạp, nhưng cái khó thường được chú
ý chỉ là lựa chọn phương pháp luận nào, ứng dụng nó ra sao, hay cần
phải cải tạo hoặc phát triển nó như thế nào để ứng dụng cho phù hợp hơn
với đối tượng nghiên cứu cụ thể. Trên thực tế, những phương pháp luận
đó chưa phải là tất cả, mới chỉ là một phần của những phương pháp luận
cần phải có. Theo chúng tôi, phương pháp luận đã có, dẫu rằng rất quan
trọng, rất căn bản nhưng vẫn chưa đủ để giải quyết toàn bộ những vấn đề
đặt ra đòi hỏi phải được định hướng về mặt phương pháp luận. Còn có
những phương pháp luận khác, tạm gọi là phương pháp luận cần được xây
dựng, đã và vẫn đang xuất hiện trong không ít công trình nghiên cứu,
phân biệt tương đối rạch ròi với những phương pháp luận đã có. Tuy
nhiên, do các công trình nghiên cứu lâu nay không buộc phải giải quyết
sự khác biệt giữa hai loại phương pháp luận này, nên có thể vì thế mà
không mấy ai chú ý để phân biệt.
2. Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể, chúng tôi thấy cần thiết phải đề cập đến khái niệm phương pháp luận, vì theo chúng tôi, hiện vẫn có tình trạng hiểu không giống nhau về khái niệm này.
Francis Bacon (1561-1626): Phương pháp là ngọn đèn soi đường cho người ta đi trong đêm |
Phương pháp luận là hệ thống những nguyên tắc và phương thức tổ chức và triển khai các hoạt động lý thuyết và thực tiễn, cũng đồng thời là học thuyết về chính hệ thống những nguyên tắc và phương thức đó. |
Trong số các định nghĩa khái niệm phương pháp luận mà
chúng tôi được biết, chúng tôi xin chọn 3 định nghĩa mà theo chúng tôi
là được sử dụng nhiều, có thể được coi là có uy tín hơn cả, để phân
tích nội hàm và cấu trúc khái niệm. Đó là định nghĩa của “Từ điển bách
khoa triết học”, Nga (1989), “Từ điển triết học giản yếu” (1987) và
định nghĩa của Edgar Morin (1986); Xin được trích nguyên văn 3 định
nghĩa này trong phần chú thích . Cả 3 định nghĩa này đều đưa ra cách
hiểu giống nhau về nội hàm và cấu trúc của khái niệm phương pháp luận.
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu thật kỹ thì cả 3 định nghĩa này đều có những
điểm chưa thực sự thuyết phục có thể do yêu cầu của việc diễn đạt khái
niệm dưới hình thức định nghĩa. Vì thế, chúng tôi xin tổng hợp cách
hiểu của cả 3 định nghĩa này như sau:
Phương pháp luận là:
- Hệ thống lý luận về các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
-
Hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và
vận dụng các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Bao gồm:
- Các nguyên tắc thế giới quan.
- Các nguyên tắc sử dụng phương pháp cho một ngành khoa học, một lĩnh vực nhận thức và hoạt động.
- Lý luận về bản thân phương pháp.
Theo
cách hiểu trên, với một đối tượng cụ thể, cái đóng vai trò là phương
pháp luận cho nhận thức hoặc cho hoạt động thực tiễn, trước hết là lý
luận về phương pháp (định nghĩa nào về phương pháp luận cũng ghi một
câu thật khó hiểu “phương pháp luận là lý luận về phương pháp”). Thực
ra, với một đối tượng (của nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn) cụ thể,
thì “lý luận về phương pháp” với tính cách là một thành phần của phương
pháp luận, chỉ có thể được hiểu là hệ thống các quan điểm, các nguyên
tắc để tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Nếu hiểu
lý luận về phương pháp quá rộng, chẳng hạn, mọi sự bàn luận lý thuyết
về phương pháp, thì sự bàn luận đó thật khó đóng vai trò là phương pháp
luận được nữa. Một nội dung quan trọng khác của khái niệm phương pháp
luận là các nguyên tắc - các nguyên tắc (có tính chất) thế giới quan để
nhận thức và hoạt động thực tiễn và các nguyên tắc sử dụng phương pháp
ở một đối tượng cụ thể.
Sau đây chúng tôi xin đề cập đến một
số vấn đề đã và vẫn đang được coi là vướng mắc đối với các nhà nghiên
cứu về phương pháp luận trong nghiên cứu văn hóa và con người.
II. Về phương pháp luận nghiên cứu văn hóa
1.
Như đã quy ước ở trên, phương pháp luận đã có là những phương pháp luận
đã được các nhà tư tưởng, các học thuyết, các quan điểm có uy tín… đề
xướng và hoàn thiện ở mức độ nhất định. Với những phương pháp luận này,
việc nghiên cứu và phát triển văn hóa ở nước ta khoảng hai chục năm gần
đây, có hai loại phương pháp luận chủ yếu được sử dụng: Phương pháp
luận coi văn hóa là sản phẩm của hoạt động và Phương pháp luận coi văn
hóa là nhân tố bên trong của sự phát triển xã hội. (Thực ra, khi nói
văn hóa là sản phẩm của hoạt động hay văn hóa là nhân tố bên trong của
sự phát triển xã hội người ta có thể hiểu ở hai trình độ: trình độ thế
giới quan và trình độ phương pháp luận. Ở đây chúng tôi chỉ bàn đến
trình độ thứ hai). Mặc dù hai loại phương pháp luận này có những điểm
không tương dung với nhau, thậm chí trái ngược nhau, nhưng thực tế thì
chúng đã cùng tồn tại trong đời sống hoạt động khoa học ở nước ta và sự
cùng tồn tại ấy dường như là khá êm thấm suốt hai chục năm qua.
Socrates (469–399 TrCN): Hãy tự nhận thức chính mình
(Cái chết của Socrates, tranh Jacques-Louis David)
2. Trước đó, văn hóa được nghiên cứu chủ yếu theo thế
giới quan và phương pháp luận mácxít. Mà lý luận mácxít, như ta đã
biết, rất ít bàn đến văn hoá. (Trong các tác phẩm kinh điển, chỉ có vài
lần Mác và ăngghen trực tiếp nhắc đến thuật ngữ văn hóa. Cũng dễ hiểu
bởi ở thời các ông, văn hóa học chưa xuất hiện, còn khái niệm văn hóa
thì vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi văn minh (E.B. Tylor trong “Primitive
Culture” 1871 Định nghĩa “Văn hóa” đồng nghĩa với “Văn minh”. xem: 24,
tr. 18) và thuật ngữ culture đôi khi vẫn được hiểu là trồng trọt, gieo
trồng (Trong thư gửi Ph. Ăngghen 25/3/1868, C. Mác dùng “Culture” với
nghĩa là trồng trọt. xem: 13, tr. 80). Nghĩa là văn hóa chưa phải là
đối tượng cấp thiết phải bàn luận như sau này. Hơn thế nữa, các nhà
kinh điển mácxít không đặt cho mình nhiệm vụ lý luận về văn hóa. Nhiệm
vụ lý luận của các ông nặng nề hơn nhiều, nếu có thể nói được như vậy).
E.B. Tylor (1832-1917)
Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về dân tộc học, nói chung được hình thành từ tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán cùng một số năng lực và thói quen khác mà con người có được với tư cách là thành viên của xã hội
(Тайлор Э.Б. (1989), Первобытная Культура, Политиздат, М.,. ctp. 18)
Do vậy, văn hóa, khi được các nhà lý luận mácxít hậu thế quan tâm (chủ yếu là các nhà nghiên cứu Xôviết, khoảng từ cuối những năm 60 thế kỷ XX) thì trên thực tế, nó chỉ còn được xem là một dạng của hoạt động người và phần lớn những thành tố của văn hóa được nghiên cứu là thuộc về cấu trúc của ý thức xã hội, nghĩa là bị quy định bởi sự tồn tại xã hội. Nên lưu ý rằng, văn hóa trong lý luận mácxít chủ yếu được nghiên cứu và triển khai theo cách tiếp cận hoạt động (Деятельный Подход, Activities Approach; đến nay, cách tiếp cận này vẫn được một số học giả phương Tây coi là một thành tựu đáng kể của nền khoa học Xôviết). Cách tiếp cận hoạt động chủ trương gắn toàn bộ đời sống phức tạp của con người với hoạt động, giải thích xã hội theo quan điểm duy vật lịch sử - nghĩa là, nói một cách giản đơn, mọi sự biến xã hội, nếu phải giải thích bằng nguyên nhân cuối cùng, thì nguyên nhân đó thuộc về đời sống vật chất xã hội và nền sản xuất xã hội. Sản xuất vật chất là cơ sở, là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội - Nguyên lý đầu tiên và quan trọng này của chủ nghĩa duy vật lịch sử hiện vẫn được ghi rõ trong hầu hết các sách giáo khoa mácxít về triết học (nói “hầu hết” là vì có sách giáo khoa triết học ở ta vẫn quên). Như vậy, có thể thấy, văn hóa như cách hiểu hiện nay, trước những năm 90 không được sử dụng ở Việt Nam. Dĩ nhiên, xin được nhắc lại là, tiếp cận hoạt động và quan điểm duy vật lịch sử trong nghiên cứu văn hóa là rất cơ bản và nó có thế mạnh của nó, ngày nay nó vẫn được không ít học giả đề cao. Nhưng đó không phải là tất cả.
3. Điều thú vị là từ cuối những năm 80 khi tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm về văn hóa của phương Tây, đặc biệt là khi tham gia Thập kỷ quốc tế về văn hóa trong phát triển (1987-1996) do UNESCO phát động, ở Việt Nam, một quan điểm mới với phương pháp luận mới về vai trò của văn hóa và nhân tố văn hóa đã được ứng dụng. Không bao lâu sau, trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước đã ghi rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (5, tr. 29).
Trên thực tế, quan điểm coi văn hóa là một cấu trúc nằm ở bề sâu đời sống xã hội, quy định toàn bộ hoạt động xã hội là lý luận được đặt ra từ Max Weber. Lý luận này có phương pháp luận riêng của nó là đề cao vai trò của các nhân tố văn hóa. Theo đó, văn hóa không chỉ là sản phẩm của đời sống xã hội mà căn bản hơn, nó còn là nền tảng sâu xa quy định toàn bộ sự phát triển của đời sống xã hội. Weber đã dùng lý luận của mình giải thích khá thành công vai trò của văn hóa Tin lành trong việc hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản châu âu. Trước kia, Max Weber bị giới lý luận Xôviết định kiến và do đó, tên ông, thậm chí cũng không được nhắc tới ở Việt Nam (xem: 30, 11).
Trong tiến trình đổi mới, với việc hưởng ứng Thập kỷ quốc tế về văn hóa trong phát triển của UNESCO, mà điểm cốt lõi là đề cao nhân tố văn hóa trong phát triển, coi trọng việc bảo vệ bản sắc dân tộc - “hạt nhân sống còn của mỗi nền văn hóa”, giới lý luận Việt Nam đã cùng với các nhà lý luận thế giới ứng dụng phương pháp luận do Max Weber đề xướng và giải thích tương đối thuyết phục về sự trỗi dậy của bốn con rồng châu Á trên cơ sở những nét đặc thù của văn hóa Nho giáo truyền thống (xem: 27, 18, 20, 28). Các giá trị văn hóa Nho giáo, các quan niệm truyền thống về đề cao nhân tố con người, quả thật, đã đóng vai trò như là những nhân tố không thể thiếu làm cho các nước NICs đạt tới “nhịp điệu rồng” của sự tăng trưởng.
4. Như vậy, điều cực kỳ có ý nghĩa mà lý luận nói riêng, và toàn bộ đời sống tinh thần xã hội nói chung ở Việt Nam có được trong những năm đầu thời kỳ đổi mới là một quan niệm mới với phương pháp luận của nó về văn hóa. Bổ sung cho cách nhìn văn hóa như là một sản phẩm của nền sản xuất xã hội, văn hóa đã được xem là nhân tố bên trong, quy định và tác động (có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây rõ ràng là một quan điểm rộng rãi hơn, mềm dẻo hơn, và hợp lý hơn, nhất là với Việt Nam, một xã hội có bề dày hàng nghìn năm văn hóa truyền thống. Và đến lúc đó, giới lý luận Việt Nam mới giật mình: chính lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có quan niệm mềm dẻo và hợp lý như thế về văn hóa ngay từ rất sớm, những năm 40 (xem: 9). Thậm chí, định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh còn khúc chiết và tường minh không thua kém bất kỳ một định nghĩa nổi tiếng nào khác (xem: 15, tr. 431).
(Còn tiếp)...