Văn minh phương Tây: Alexander Đại Đế và Kỷ Nguyên Hy Lạp hóa
GS. Eugen Weber Lê Quỳnh Ba biên tập I . Alexan Đại đế (332TCN) Ông tìm kiếm sự vĩ đại trong bất kỳ việc gì mình làm. Chỉ trong vòng vài năm ông thống trị toàn bộ thế giới. Được nhiều người coi là vị thánh chứ không phải con người. Khi ra đi, ông để lại sau lưng 1 ...
GS. Eugen Weber
Lê Quỳnh Ba biên tập
I . Alexan Đại đế (332TCN)
Ông tìm kiếm sự vĩ đại trong bất kỳ việc gì mình làm. Chỉ trong vòng vài năm ông thống trị toàn bộ thế giới. Được nhiều người coi là vị thánh chứ không phải con người. Khi ra đi, ông để lại sau lưng 1 đế chế rạn vỡ, 1 nền tảng văn hóa Hy Lạp chung và 1 hoài niệm lôi cuốn loài người.
- Nguyên nhân những thành bang Hy Lạp cuối cùng đã hỗ trợ những chiến dịch ở phía Đông của Alexander. (cùng là người Hy Lạp tự do)
Sức mạnh của Đội hình vạn người, bộ binh hình khối:
Năm 401 TCN, hoàng tử Ba Tư xuất quân, khoảng 12.000 lính đánh thuê Hy Lạp, tiến đánh nhà vua, anh trai mình, để chiếm ngôi. Vị hoàng tử đó đã tử thương ngay trong trận đánh lớn đầu tiên. Nhưng quân lính của ngài vẫn đánh thắng đội quân khổng lồ Ba Tư và tiến về trung tâm. Họ tiến đến rất gần Babylon, không đồng minh, không chỉ huy, họ hành quân 1000 dặm để tới bờ Hắc Hải, và đi thêm 500 dặm để tới Byzantium, qua những địa hình hiểm trở và biết bao trận đánh. Nhưng cuối cùng họ cũng đến nơi. Cuộc hành quân huyền thoại đó khiến người trong và ngoài Hy Lạp tin rằng đội quân đánh thuê đó của họ đội hình bộ binh trang bị nặng nêm chặt với nhau – là bất khả chiến bại. Và còn chứng minh được nhiều hơn thế, nếu bộ binh được kỵ binh yểm trợ thì không kẻ thù nào trên thế giới có thể đứng vững. Lời tiên đoán này càng có vẻ mơ hồ bao nhiêu thì cuối cùng nó càng chính xác bấy nhiêu. Câu chuyện về những người lính đánh thuê nổi tiếng với tên gọi “Đội quân vạn người”, Xenophon, 1 trong những người lính thành Atens. Khi Xenophon qua đời khoảng 355 TCN, 1 thế lực mới đang trỗi dậy, khởi nguồn từ hào khí của hành trình thần thánh của Đội quân vạn người.
Thế lực Macedon. Người Macedon thực ra là người Hy Lạp, nhưng dân Hy Lạp không bao giờ công nhận, cũng như mãi đến TK 16, người Scotland mới được coi là người Anh. Di sản hoàng cung của Macedon. Trở lại TK 5 TCN, Macedon vẫn là 1 xứ mông muội, hệ thống phong kiến, hình thái bộ lạc, thị tộc. Ngôi vua được truyền theo dòng dõi. Nhà vua là đấng tối cao về tôn giáo và quân đội, đối với toàn bộ và dân chúng. Cung điện xây dựng ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp và bị Hy Lạp hóa rất nhiều, vùng đất này cho mãi đến giữa TK 4 TCN, vẫn là 1 xứ chậm tiến. Khi quốc vương Phillips chinh phục được các lãnh chúa khác, bắt tòng quân tất cả đàn ông tự do, hoặc quân đội hoàng gia thường trực, dưới quyền tướng tá chính ông.
Phillips tiếp thu phương pháp quân sự của Đội quân vạn người trước kia. Nhưng có cải tiến, kết hợp đội hình cái nêm với lực lượng bộ binh trang bị nhẹ và quan trọng là là kỵ binh nặng. Đó là đội quân vạn người không có (kỵ bịnh). Macedon có thể huy động 1 lực lượng kỵ binh khổng lồ bởi có những cánh đồng bao la, trảng đất rộng là nơi cưỡi ngựa của thanh niên quý tộc. Đúng như lời dự đoán 50 năm trước, không 1 lực lượng nào trên thế giới cản bước họ. Phillips khởi binh uy hiếp hoặc chinh phục hầu hết thành bang Hy Lạp và thành công rực rỡ. Không những vì ông có lực lượng mạnh hơn, chặt chẽ hơn và rất trung thành mà còn vì nội bộ Hy Lạp lục đục. Hy Lạp lục đục vì người Ba Tư đã tốn nhiều công chia rẽ họ, làm họ luôn tranh chấp, thay vì chống đế chế Ba Tư.
Phillips dễ dàng đánh bại các thành bang Hy Lạp, nhưng cách duy nhất tập hợp họ dưới trướng mình là phủ dụ họ, không phải với tư cách 1 người Atens hay Corin mà là 1 người Hy Lạp. Phillips biết rõ, vào thời kỳ này, Hy Lạp là những người tự do ngược lại với nô lệ khốn cùng của đề chế Ba Tư. Cuộc chiến Salamis (tháng 9/480 BC) và Platea, được ông nhắc đến như những chiến công chói lọi trước đế chế Ba Tư. Nhưng mục đích tối hậu là thổi bùng ngọn lửa căm thù đối với kẻ xâm lược trong quá khứ, những kẻ ngày nay, vẫn chiếm cứ thành bang phía Đông của họ. Trả thù không chỉ để chiếm lại đất đai, của cải phía Đông mà còn tiếp nối những huyền thoại như Hercules, vị anh hùng đã lập những kỳ tích ở Phương Đông (Troy – 1200 BC).
Thực vậy, năm 334 TCN con trai của Phillips, Alexander Đại đế, đã tràn quân sang châu Á. Ông đã đi vòng quanh 1 vòng thành cổ Troy và tuyên bố với dân chúng rằng ông chính là thần Asin tái sinh, chuẩn bị thanh toán mối thù truyền kiếp giữa Hy Lạp và châu Á. Do đó từ đầu TK 4 TCN, 1 nguyện vọng dấy lên trong lòng người Hy Lạp (HL) về cuộc chiến trả thù người Ba Tư, tranh chấp nội bộ sẽ lắng xuống để hướng toàn bộ lực lượng và sức mạnh ra ngoài quê hương.
Cũng mở ra chân trời mới cho giao thương và thuộc địa hóa. (Dân số dư thừa). Từ trước, HL vấp 1 trở ngại lớn ở Phía Tây bởi thành bang Carthage hùng mạnh, sự chống cự của dân địa phương, và đối với việc biến Ý thành thuộc địa. Trên thực tế, hệ thống thuộc địa của HL không còn được mở rộng từ TK 7 – 6 TCN. Trong khi họ rất cần mở rộng nó vì chiến tranh triền miên ngốn rất nhiều của cải và tàn phá nông nghiệp, khiến dân chúng thiếu ăn. Vì vậy, HL dân số dư thừa – như thợ thủ công, thợ rèn, những người trẻ tuổi thích phiêu lưu, nghệ nhân, học giả, cả kỹ sư, nhà buôn, nhưng họ không thể thành lập thành bang mới. Và vấn đề dư thừa dân số vẫn là 1 bài toán, mà lời giải duy nhất là chiến tranh.
Thống lĩnh thế giới Hy Lạp và hăm dọa lính đánh thuê Hy Lạp: Người Macedon kêu gọi cử binh đánh Ba Tư, nhưng không phải luôn có hiệu quả, bởi vì rất nhiều người HL ghét người Macedon không kém gì người Ba Tư. Tuy nhiên, với tư cách là vương giả thống lĩnh thế giới HL và đế chế Ba Tư, cha con Phillips dù không thể khiến 1 vài thành bang trở thành đồng minh của họ, thì cũng giữ họ ở thế trung lập. Người Macedon cũng cố gắng hăm dọa lính đánh thuê HL, những người bán mình cho kẻ trả giá cao nhất. Điều này rất nguy hiểm vì Hoàng đế Ba Tư có nhiều tiền hơn HL rất nhiều. Nhanh chóng lính đánh thuê nhận được thông điệp, khi bị tuyên bố phản lại quyền lợi quốc gia, quyền lợi của HL – họ bị xử tử hoặc đày đến khu mỏ như nô lệ, và chịu đựng cuộc sống tồi tệ hơn là chết.
Và như thế cuộc chiến toàn dân chống lại đế chế Ba Tư ở châu Á trở thành 1 kế hoạch vĩ đại, hoàn chỉnh.
Mặc dù, vua Phillips bị ám sát 336 TCN, trước khi kịp phát động cuộc chiến. Alexander tỏ ra rất xứng đáng với sứ mạng đó, lên ngôi lúc vừa tròn 20 tuổi, là học trò của Aristotte, đã đọc câu chuyện của Xenophone và hiểu mình có thể làm được những gì, đạt gì ở châu Á.
Năm 334 TCN dẫn đầu liên quân Hy Lạp – Macedon, vượt qua eo biển Hellenspont tiến vào Tiểu Á. Sau đó, ông lật đổ vương triều Ba Tư. Cả vùng đất từ Lybia đến Afganistan nằm trong tay ông. Ông lập nên đế chế Hy Lạp – Macedon, đưa con người và văn hóa Hy Lạp đi khắp phương Đông, tất cả chỉ trong vỏn vẹn 11 năm. Sau đó, ông mất vì bệnh sốt rét ở Babylon, khi mới 32 hoặc 33 tuổi. Alexander thực sự là 1 trong những vị thống soái vĩ đại nhất của loài người, và ông cũng muốn được coi là vĩ đại.
- Động cơ dẫn dắt Alexander muốn được tôn thờ như một vị thần:
Thời gian đã xóa mờ sự tàn độc của ông, nhưng nên nhớ rằng, ngay cả Cassander, 1 vị tướng tàn ác nhất của Macedon, người biết Alexander từ lúc còn trẻ, cũng phải rùng mình khi đi qua tượng của ông. Bởi vì kế hoạch của ông nghe có vẻ như vô phương thực hiện, nên ngoại trừ những người quen biết ông ra, thì những người còn lại không nghĩ ông là 1 anh hùng, mà hơn thế nữa, là 1 vị thần. Rất nhanh chóng, Alexander nghĩ mình nên được coi là 1 vị thần, điều đó khá hợp lý, bởi vì trong truyền thống châu Á, 1 vị vua phải được thần thánh hóa để duy trì quyền lực. Một trong những di sản quý giá nhất mà A. để lại cho loài người là tham vọng trở thành bất tử, cùng những nghi lễ thờ phụng vây quanh ông. Dần dà nó hấp dẫn được cả vị quốc vương tham vọng và tàn nhẫn. Kỳ tích của ông là ước mơ vươn tới của biết bao thiên tài sau này, những người như Ceasar…, như Napoleon…
Một dị biệt khác của người đàn ông này là ông ta thường cư xử như 1 nhà vua – hiền triết, giống như miêu tả của Platon, mà có lẽ ông học được từ người thầy Aristotle. A. đảm bảo rằng các triết gia và nhà khoa học là phần không thể thiếu trong các cuộc chinh phục của mình, họ đươc mang theo để quan sát và ghi chép lại tất cả. Và ông tìm kiếm sự vĩnh cửu bất cứ việc gì ông làm:
– Ông thiêu trụi cung điện Ba Tư ở Persepolis để trả thù hoàng đế Ba Tư đã đốt thành Atens 150 năm trước.
– Sau đó tổ chức đám cưới tập thể khổng lồ, giữa những thiếu nữ Ba Tư và các tướng lĩnh HL, biểu tượng bang giao mà ông muốn gây dựng giữa HL và các dân tộc khác, với mục đích lập nên đế chế vĩ đại vĩnh viễn trường tồn.
Nhưng ước mơ không thể thực hiện được, các xứ sở mà ông tập hợp được khác xa nhau, khi ông mất, chúng lại bị tách ra. Những đế chế và văn hóa mới này, đều không thuần HL và châu Á, mà cả hai. Bởi vậy, chúng không được miêu tả hellenic (thuần HL) – mà là HELLENISTIC là có đặc điểm HL.
- Sự khác nhau giữa nghệ thuật cũ và Hy Lạp hóa và nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Giai đoạn sau đó được đặt tên là Thời đại Hy Lạp hóa, kéo dài 300 năm đầy biến động, bắt đầu sau cái chết A. 323 TCN đến cái chết Cleopart 30 TCN, hậu duệ 1 trong những tùy tướng A. Đó là 1 thời đại sôi nổi như thời đại chúng ta ngày nay.
Quyền lực được chuyển giao từ chính thể đại diện sang 1 chế độ độc tài; cũng là chia tách về tâm lý và thẩm mỹ; cũng là sự nổi lên của xu hướng phản duy lý; cũng là thái độ chỉ quan tâm đến bản thân mình; cũng là sự đam mê bệnh hoạn đối với của cải và tôn giáo ngoại lai; cũng là những sở thích kỳ dị, chiêm tinh, ma thuật và dục vọng; cũng là sự thích thú với những cái đồ sộ; xa rời quê hương; với 1 cảm giác không mấy dễ chịu; “cả thế giới chỉ là 1 thành bang lớn”; cũng là mâu thuẩn giai cấp và chủ nghĩa thực dân; cũng là chiến tranh, giải phóng dân tộc; và để lực lượng địa phương thanh toán lẫn nhau; cũng là thói quan cách hách dịch lo áp đặt ách đô hộ hơn là lo cải tiến cách làm ăn; cũng là sự phủi tay khỏi chính trị; cũng là sự sa sút phẩm chất con người…ở những siêu đô thị, thành phố mà ngày nay vẫn tồn tại ở Hy Lạp, thành Arcadia.
Vậy hãy xem xét kỹ hơn thời đại đó giống chúng ta 1 cách kỳ lạ. Những đất nước do tùy tướng của A. lập ra trong thời đại Hy Lạp hóa: Ai Cập của Ptolemy, Babylon của Seleucus. Những nước này từ trước đã theo chế độ quân chủ, mang mô hình quan lại đã qua nhiều lần điều chỉnh. Nhưng những thành phố, triều đình hoàng gia, quân đội và những trọng thần cao nhất hầu hết đều là người HL với những giá trị đồng nhất của người HL. Mặc dù người HL và Macedon đã kết hôn với người bản xứ, nhiều người dân bản xứ bị đồng hóa, nhưng hòa nhập không chặt chẽ. Có 1 khoảng cách quá xa, giữa con người đô thị tương đối văn minh, tương đối tự do, hiểu biết, nói tiếng HL sống ở đô thị, với những nông dân – nô lệ ở những xứ sở rộng lớn nơi vua chúa có quyền sinh quyền sát. Người HL miễn cưỡng chấp nhận, triều đình độc tài được nhân dân thần phục, nhưng họ không nhầm tưởng, rằng họ là thần thánh hoặc không bao giờ sai lầm. Ngược lại, người HL vẫn duy trì pháp luật và chính thể của họ, vốn là sản phẩm của lý trí, chứ không thần bí.
Vậy nên văn hóa không thực sự hòa trộn, trong thời đại Hy Lạp hóa. Như tranh tường La Mã tả: Macedon và Syria đang quan sát nhau, cùng tồn tại, nghi kỵ nhau. Xem xét phương thức độ hộ của Macedon là so sánh họ với khu định cư người Anh, khi họ đến Ấn Độ TK 19, 20. Trong cả 2 trường hợp, kẻ thống trị xa xứ, giữa 1 biển dân bản địa, giữ cờ, quy tắc của họ, có sự tách biệt và phân cấp. Làm sự hợp nhất không thể, mà còn bị ghét bỏ từ 2 phía. Nhưng nó cũng mang đến cho người bản xứ những mô phạm khác lạ, giống như người Anh mang luật pháp, mô hình xã hội, tiếng Anh và cả môn cricket đến Ấn Độ, được tiếp nhận và thích nghi, cả bên ngoài khu vực mà Anh kiểm soát. Người HL là sứ giả mang văn hóa, chế độ xã hội, tư tưởng và phong cách, ngôn ngữ đến tận những nơi xa xôi như Afganistan và Ấn Độ. Ví dụ, Một thành phố HL còn di tích ở Biên giới bắc Afganistan (Ai Khanoum), người thành lập có lẽ tới từ Thessaly, miền Trung HL. Các triết gia cũng đến đây. Phát hiện di tích khoảng 1990. Có đấu trường, đây là văn hóa và nơi huấn luyện rất riêng của người Hy Lạp. Có thư viện, đền thờ,… Những mô phạm và phong tục HL rất sống động ở đây, cho đến khi bị phá hủy vào cuối TK 2 TCN, bởi 1 bộ tộc di cư từ thảo nguyên xuống. Đó là cách người Hy Lạp mở rộng nền văn hóa thị dân của họ.
Các con đường liên lạc: Khoảng 323 TCN, thế giới người HL mở rộng gấp 4 lần, điều đó là sự thúc đẩy thần kỳ đối với các hoạt động du hành và thương mại. Phần lớn thương mại quốc tế được thực hiện bởi các đoàn thương nhân chở trên lưng gia súc vượt qua những đoạn đường gian truân. Nhưng các triều vua Ba Tư cũng xây dựng những con đường đưa thư hoành tráng, dài 1500 dặm từ Sardis đến kinh đô Susa. Dọc đường có trạm thay ngựa, nhà trọ và các pháo đài. Trong suốt thời đại HL hóa, con đường phục vụ chủ yếu cho tướng tá và quân lính, nhưng cũng góp phần chuyên chở hàng hóa nếu không thể dùng đường thủy.
Hoạt động buôn bán trở nên cực kỳ phát đạt, bởi vì của cải của những kẻ thống trị và những thành bang ngày càng phụ thuộc nhiều vào buôn bán với các vùng miền khác. Trên thực tế, những kẻ thống trị trong thế giới HL hóa chính là những ông vua – nhà buôn thực thụ. Họ thực hiện cả những chuyến du hành – buôn bán sang tận châu Phi, Ả Rập, Ấn Độ, để mua voi, trầm hương, gia vị và nô lệ. Trọng tải tàu ngày càng tăng. Dân đảo Syracus thuộc Sicily đóng cả tàu 4500 tấn. Lượng tiền lưu thông ngày càng lớn. Đồng bạc Phoenicia. Tiền Syracus. Thổ ngữ HL gọi là Koine trở thành ngôn ngữ chung cho dân từ Gibranta đến Caspian. Điều này khiến cho thương mại dễ dàng hơn nhiều, văn hóa HL truyền bá rộng rãi hơn. Một trí thức như người thầy thuốc có thể sống ở Alexandria (Ai Cập) hoặc Syracus (Sicily) mà cảm thấy thoải mái như ở nhà. Kép hát toàn xứ liên hệ với nhau, có chi hội ở các thành bang lớn. Phường hội nấu rượu, vận động viên thể thao. Hoặc muốn thờ cúng thần như Iris có thể đến nhà Thờ nằm rãi rác khắp nơi. Cứ như thế 200 năm trước Chúa Jesus ra đời, tư tưởng, kiểu cách, hàng hóa đã được lưu thông cực kỳ thuận lợi.
Nhưng trớ trêu thay, đó là thời kỳ suy tàn của các thành bang cổ HL sau mấy trăm năm được sùng kính. Sự suy tàn này để các nơi khác nổi lên, bắt đầu 1 thời đại thế giới thống nhất hơn. Con người cũng đoàn kết hơn. Sự suy tàn của các thành bang cổ HL cũng làm suy yếu các nguyên tắc cũ – về mặt kỹ luật, tính khắc khổ, hay thiếu cá tính người. Quan hệ giữa các thành bang xấu đi, các nguyên tắc không còn nghiêm ngặt nữa, tạo điều kiện cho tinh thần chiết trung mới phát triển. Đó là dấu hiệu riêng của Thời đại Hy Lạp. Điều này thay đổi cách mà người xưa nhìn nhận thế giới lúc bấy giờ, và cách chúng ta ngày nay nhìn nhận thế giới ra sao.
II. Kỷ nguyên Hy Lạp hóa (The Hellenistic Age, có đặc điểm Hy Lạp) (^332 – 30 BC)
Đó chính là thời đại giống chúng ta bây giờ, với các quốc gia lớn, phi nhân tính. Và các cá nhân thấy lạc lỏng trong xã hội đó. Một thời kỳ của tiêu dùng, bạo tàn, sự phức tạp, các thử nghiệm; sự nổ lực tìm kiếm sự biện hộ và niềm an ủi trong các nghi thức tôn giáo.
- Cách mà văn hóa Hy Lạp bị ảnh hưởng hoặc thất bại ảnh hưởng đến kẻ xâm lược.
Tượng nghệ thuật cổ hướng tới hình mẫu các vị thần lý tưởng, bất biến; nghệ thuật mới giống con người hơn. Chủ nghĩa cá nhân lên ngôi.
Sự tàn lụi đáng báo động của các thành bang tự trị của Hy Lạp cổ đại và sự suy yếu các lề thói cổ xưa trong vòng 3 thê kỷ BC. Song đây không phải là sự suy tàn như nhiều người nghĩ, mà trái lại, khi sự quản lý thành bang yếu đi, tinh thần cởi mở dần xuất hiện trong Kỷ nguyên Hy Lạp hóa (KN HL hóa). Một tinh thần của thực nghiệm và sự đa dạng.
Nghệ thuật của Hy Lạp cổ đại chia theo phong cách 4 giai đoạn:
– 1200 BC, kỷ nguyên tăm tối: không thấy nghệ thuật.
– hình học: (^1000 BC -… )
– Cổ xưa: (^…. – TK 7- Chiến tranh Ba Tư năm 480 – 448 BC). thời kì TK 7 BC phong cách cổ xưa phát triển chậm (kiểu tranh vẽ men đen trên đồ gốm).
– Thời kỳ cổ điển: sau Chiến tranh Ba Tư – triều đại của Alexandros Đại Đế (từ năm 336 TCN đến năm 323 TCN).
– Thời kì Hy Lạp hóa: (sau triều đại Alexandros Đ Đ – ^ 30 BC)
Đáng chú ý nhất là trong lĩnh vực nghệ thuật. Các nghệ sĩ thời đại Hy Lạp cổ đại đặt ra những tiêu chuẩn vượt ra ngoài sự thay đổi và suy thoái, vốn là 1 phần tự nhiên của cuộc sống. Các nghệ sĩ Kỷ nguyên Hy Lạp hóa đã cố gắng nắm bắt những giá trị đich thực của con người đi cùng với sự thay đổi và muôn màu muôn vẻ của cuộc sống.
Sự hoàn hảo phong cách cổ đại là thuần khiết, mộc mạc và bất biến. Các nghệ sĩ HL cổ đại và tiền cổ đại hướng tới hình tượng được xem là vô tận và lý tưởng: tĩnh lặng và bất biến trong sự tuyệt mỹ.
Nhưng sau đó mọi thứ trở nên linh hoạt hơn. Các pho tượng trong Kỷ nguyên Hy Lạp hóa giống con người hơn, bộc lộ cảm xúc. Họ đấu tranh để thực tế hơn, cho chuyển động và cho nhục dục. Đây là 1 nghệ thuật của xã hội nhằm thỏa mãn bản thân nó chứ không muốn bắt chước thần linh hay vị anh hùng. (Thần vận mệnh không làm ra vẻ tôn nghiêm, kiểu cách; thay vào đó nữ thần ngồi như 1 người phụ nữ bình thường. Thần tình yêu Aphrodite với dáng điệu uyển chuyển, uốn lượn. Thần chiến thắng Victory hạ xuống mũi tàu, và bạn có thể cảm nhận những cơn gió khiến váy áo áp vào thân thể nữ thần). Và sau đó những kỹ thuật đỉnh cao này trở nên cường điệu hóa. Những bức tượng như kiểu Lacoon và các con trai, mãng xà mà nữ thần Athena phái đến giết họ.
Chủ nghĩa cá nhân lên ngôi: Ở khía cạnh này người HL khá giống chúng ta: tôn sùng sự ôn hòa, tiết chế nhưng lại thường hành động thái quá. Và cũng có khuynh hướng ám chỉ các sự kiện lịch sử. Đây là thời đại đầu tiên của viện bảo tàng, những bộ sưu tập, thư viện tư nhân, thư viện công cộng và khảo cổ học. Nghệ thuật hướng tới cộng đồng kết thúc, nghệ thuật cá nhân lên ngôi. Chúng ta có tượng bán thân và tranh chân dung không hoàn hảo nhưng sống động, có tranh vẽ phong cảnh và tĩnh vật có lẽ không hoàn toàn phù hợp khi thần thánh và thành bang là chủ đề chính.
Giờ đây trung tâm của văn học không còn là Aten mà là Alexanderia, nơi sản sinh ra dự đoán tâm lý học, tiểu sử và tự truyện. Trong đoạn kịch này, đôi tình nhân không chống lại thần thánh mà là đấu tranh với phụ mẫu, tình địch. Và chứng cớ không dựa vào các giá trị cao hơn mà dựa vào di chúc, của hồi môn và các lá thư bị đánh cắp giống ngành giải trí hiện đại. Công chúng muốn xem kết thúc có hậu chứ không bất hạnh và tàn nhẫn của bi kịch HL truyền thống. Giờ đây, nghệ thuật có nhiều chổ đứng hơn trong thị trường, thị hiếu công chúng đa dạng hơn, ít cao siêu, ít quý phái hơn so với TK 5 hay 6 TCN. Nó phản ánh 1 xã hội đời thường hơn: bấp bênh, phức tạp, đầy kích động nhưng sinh động giống xã hội chúng ta bây giờ.
Một mặt quen thuộc của thế giới Hy Lạp hóa là kinh nghiệm sống trong cộng đồng của 1 người, đã chuyển từ xã hội mang tính chủ quan, nơi bạn có thể gây ảnh hưởng tới môi trường nếu muốn sang xã hội nhỏ lẽ, mang tính khách quan. Nếu anh muốn có 1 cuộc sống tốt đẹp, anh không thể như Plato thường nói: Hãy tạo nên 1 cuộc sống tốt đẹp; xã hội tốt tạo công dân tốt, những con người tốt sẽ gây dựng đời sống tốt”.
Nếu anh muốn là 1 phần trong thế giới, anh không thể chỉ ở yên trong thành bang mình, vì thành bang ngày càng ít quan trọng. Anh phải phục dịch cho những vị Đại đế trị vì ở Macedon, Ai cập hay Syria. Các vị hoàng đế này trị vì rất nhiều dân tộc khác nhau. Thực tế họ đã áp đặt cách cai trị giống như phương Đông, vua được coi là thiên tử. Vì chỉ bằng cách này họ có thể đặt nhiều vùng, nhiều bộ tộc nhiều thành phố khác nhau dưới ách thống trị của mình. Ngay các vị vua ít quyền lực hơn cũng tham vọng dựa trên tuyên bố của Alexander rằng mình là thần thánh. Song những tham vọng này hoàn toàn mâu thuẩn, với những tiêu chuẩn của xã hội HL. Cho nên 1 trong 2 thế lực phải từ bỏ hoặc hoàng đế hoặc Hy Lạp. Vào TK 4 TCN, khi Alexander gởi chiếu thư cho Hy Lạp, đòi họ tôn sùng mình như 1 vị thần. Dân thành Sparta chấp nhận điềm tĩnh, chấp nhận thực tế chen lẫn hoài nghi “Nếu ông ta muốn được coi như 1 vị thần”, “hãy để ông ta là 1 vị thần”.
- Tính năng bao quát của phong trào Triết học trong giai đoạn Hy Lạp hóa.
Vua muốn là thiên tử: Các bạn có thể nhận thấy điều này khi quan sát Antiochus I Commagene, 1 vị vua thời Hy Lạp hóa TK 1 TCN khi ông ta xây dựng lăng mộ mình ở Nemrutdag, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Antiochus phá bỏ phần đỉnh ngọn núi cao 8200 feet (2,499 km) xây lăng mộ đồ sộ cao 400 feet với các tượng thần Hy Lạp và Ba Tư khổng lồ, ở giữa là ông ta ngồi. Sự ngạo mạn này phá vỡ hoàn toàn sự ôn hòa truyền thống Hy Lạp. Điều đó còn xúc phạm quan niệm người Hy Lạp về phẩm cách của thần dân tự do vốn chỉ tuân theo luật lệ thành bang.
Người dân muốn độc lập: Nhưng thời tự trị của thành bang đã thành quá khứ, giờ đây quyền lực nằm trong tay nhà vua. Cho nên nảy sinh vấn đề là: làm thế nào những người có suy nghĩ độc lập, có chính kiến thích nghi với tình hình mới. Anh ta làm sao nếu muốn sống tốt, trung thực theo nguyên tắc đạo đức của bản thân? Liệu anh ta có nên đứng ngoài cuộc? Hay anh ta phải hành động? Nếu hành động thì làm gì? Đây là vấn đề của nhiều trường phái triết học của Kỷ nguyên Hy Lạp hóa. Vấn đề họ phải đối mặt: và khi chọn cách giải quyết khác nhau, tất cả đều đồng ý rằng con người phải khám phá ra: nguồn gốc của tự do và công bằng trong chính bản thân họ.
Tự do thời kì cổ đại là tuân theo luật thành bang mình và tôn thờ vị thần bảo vệ thành bang đó. Trong thời Hy Lạp hóa, tự do phải bao gồm tự do bên trong bắt nguồn từ sự hòa hợp giữa trật tự vũ trụ và bản thân con người. Người khôn ngoan là người tự do kể cả khi anh ta là nô lệ – miễn sao anh ta có thể tạo ra và duy trì sự tự do trong tâm hồn. Nếu anh ta biết cách tự chủ thì không ai làm chủ được anh ta. Không ai có thể hăm dọa anh ta. Niềm đam mê, nỗi sợ hãi, tính tham lam và những ham muốn không thể khiến anh ta đánh mất sự bình tâm. Anh ta không cảm thấy phải “chịu đựng những viên đá những mũi tên của số mệnh phũ phàng”. Rõ ràng anh ta đang tìm cách để khỏi lo âu, về vận may hoặc số phận hay vận mệnh. Bởi anh ta độc lập hơn bất cứ ai. Các nhà triết học yếm thế mà đại diện tiêu biểu nhất là Diogenes có 1 trong nhiều cách thức để đạt sự tự do ý chí và tư tưởng sống tách rời. Về cơ bản những người theo thuyết yếm thế nghĩ rằng việc sống nghèo hèn, thô sơ, phi truyền thống, tách rời khỏi xã hội, xa lánh gia đình và mọi của cải vật chất, đi hành khất để tồn tại. Chính bản thân Diogenes sống trong 1 cái thùng, trên đường phố Athens. Khi Alexander Đại Đế hỏi rằng: liệu ngài có giúp gì cho ông già được không? Lúc đó, ông yêu cầu Đại Đế tránh xa 1 chút để đừng che ánh mặt trời của ông. Đây là 1 cách trốn tránh số phận: vất bỏ mọi thứ và tàn nhẫn với người khác.
Cách khác là xa lánh mọi người và từ bỏ thế giới. Ngoại trừ 1 vài tâm hồn cao thượng, và 1 vài yếu tố cần thiết trong đời sống văn minh. Tránh xa khổ đau, phiền muộn và mọi âu lo xuất phát từ những thú vui trần tục, chỉ tìm kiếm sự thỏa mãn. Cụm từ “chủ nghĩa khoái lạc” từ chữ Hy Lạp, ám chỉ khoái lạc. Song đây không là thỏa mãn về xác thịt mà là sự hài lòng khi tâm trí thanh thản. Đây là học thuyết của nhà triết học Epicurus, (341- 270 TCN), khuyên người ta thoát ly, lánh xa khỏi thế giới, nên không mấy ảnh hưởng chính trị, lịch sử.
Một đối thủ thành công hơn của Epicurus là Zeno (335 – 263 TCN). Điều đáng chú ý là Epicurus truyền giảng triết lý của mình trong 1 khu vườn riêng, thì Zeno lại truyền giảng dưới mái vòm công cộng, 1 cổng vòm. “Chủ nghĩa khắc kỷ” quan tâm xã hội, thuýêt Epicurus thì hưởng lạc. Vì nó dạy con người sự tự do bên trong bắt nguồn từ sự hòa hợp với trật tự của xã hội. Theo Zeno, trật tự vũ trụ là nắm bắt sự vận hành của vũ trụ, phục tùng nó và anh có tự do. Điều này chí ít, theo “chủ nghĩa khắc kỷ: là sự độc lập tinh thần; anh không chỉ đơn giản bỏ qua thế giới bên ngoài., vì nó phản ảnh trật tự xã hội, một người thông thái có thể thấy sự liên hệ giữa 2 yếu tố đó.
Vai trò của 1 nhà thông thái, là khôi phục và cải thiện trật tự thế giới xung quanh, đưa thế giới hòa hợp vũ trụ, để khuyên răn các bạo chúa nắm quyền hành trong tay, biến họ thành nhà hiền triết. Cho nên, theo chủ nghĩa yếm thế sống vô chính phủ, sống bị động. Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ là những chính trị gia thủ cựu, họ cũng giống những người theo Thanh giáo sau này, miễn cưỡng chấp nhận những gánh nặng của cuộc sống. Tuy trường phái khắc kỷ có vẻ miễn cưỡng, triết lý lại tích cực, vì dạy rằng có 1 trật tự cao hơn điều khiển thế giới. Và trách nhiệm của công dân tốt là ủng hộ các giá trị cao quý hơn, đây chính là sự đền đáp cho bản thân họ. Nhà viết tiểu sử các nhà triết học Hy Lạp ở TK 3. Diogenes Laertius đã nêu ra các nguyên tắc của chủ nghĩa khắc kỷ: sự kết thúc có lẽ được định nghĩa bằng cuộc sống phù hợp với tự nhiên hay nói cách khác hòa hợp với bản chất con người cũng như của vũ trụ. Một cuộc sống mà chúng ta kiềm chế mọi hành động; bị luật pháp cấm đoán mọi thứ được coi là lý do chính đáng cho mọi thứ.
Bấy giờ đức tin của chủ nghĩa khắc kỷ về 1 tiêu chuẩn đạo đức tự nhiên, được mọi người lĩnh hội sau này được chuyển hóa thành luật pháp La Mã. Và nó trở thành sắc lệnh của 1 chính phủ quy mô lớn. Nó được truyền tới thời Trung cổ và muộn hơn nữa. Đức tin của chủ nghĩa khắc kỷ cũng đóng góp 1 phần quan trọng vào Cơ đốc giáo, qua các tác phẩm của Epicteus, nhà triết học (60 – 120 SCN). Ông viết rằng: con người là sản phẩm của Chúa Trời, bạn là phần riêng rẽ của Chúa, trong con người bạn có sự hiện diện của Chúa. Vậy tại sao bạn không biết đến nguồn gốc cao quý vốn có của mình. Nó nằm trong người bạn và bạn mang nó theo mình. Bạn không hề biết mình đang báng bổ Chúa bằng những suy nghĩ đen tối và hành động bẩn thỉu.
- Sự giống nhau và khác nhau trong số các tôn giáo huyền bí
Tuy vậy vào thời đó, còn có 1 phương diện đen tối hơn của thời Hy Lạp hóa – đó là sự tồn tại dai dẳng và phổ biến của các tôn giáo nguyên thủy huyền bí. Những người phụ nữ trong tranh đang tham gia nghi lễ chỉ những người đã được thụ giáo mới biết được những bí mật cho tới những điều huyền bí trong cuộc sống. Cho nên chỉ có họ mới được cứu rỗi, che chở. Nghi thức tôn giáo thờ nữ thần Isis hay thần Serpais của Ai Cập, thần Mithas của Ba Tư hay những vị thần khác. Tất cả đều có điểm chung: đó là tín ngưỡng của 1 số cá nhân, chứ không đại diện cho cộng đồng thành bang. Họ không hề có trách nhiệm chính trị nào cả. Và họ giới hạn người ta trong cộng đồng những kẻ sùng đạo hoàn toàn độc lập với tin ngưỡng chung của quốc gia.
Dạng đơn giản nhất là thờ thần đất mẹ, giống như nghi lễ tế Eleusinian (tế nữ thần Demeter và con gái Persephone) được miêu tả ở đây. Hay nghi lễ tế thần rượu vang, vị thần của sự màu mỡ, rượu vang, nghệ thuật sân khấu kịch. Trong tất cả nghi lễ, 1 vị vua trẻ xuất hiện, mang đến mùa xuân và mùa hè. Người xuất hiện như 1 vị cứu tinh của trái đất của Trái đất, vốn bị cái lạnh giá và chết chóc của mùa Đông bao phủ, với tất cả sự ô uế trong quá khứ đã trở nên cằn cỗi. Bằng sự ngoại suy, vị vua trẻ còn là người cứu rỗi và thanh lọc nhân loại khỏi mọi tội ác, mang 1 kỷ nguyên mới cho thế giới. Sau đó, còn có 1 người phụ nữ, thần đất mẹ hay thần mùa màng; là mẹ, chị hay vợ của vị cứu tinh, người này vừa là trinh nữ, vừa là mẹ, xuất hiện khắp Địa Trung Hải, với nhiều hình dạng và danh tính khác nhau. Cuối cùng, có những vị thần từ thiên đường: Mặt trời ngự trên cỗ xe; Mặt trăng và các vị sao dưới dạng những cậu bé bay lượn. Qua nhiều thế kỷ, nghi lễ thờ cúng này dần sáp nhập với tín ngưỡng thờ Thần Mặt trời của người Ba Tư. Và cuối cùng trở thành tín ngưỡng thờ thần Mithras, vị thần Mặt trời bất khả chiến bại trong tượng đang giết thịt 1 con bò đực để gọi mùa màng về. Tín ngưỡng thờ thần Mithras đặc biệt phổ biến ở La Mã vào TK thứ 2. Và xem ra là kỳ phùng địch thủ với Cơ đốc giáo. Sau Mặt trời có các hành tinh, 7 khối cầu bao quanh Trái đất, chuyển động thể hiện ý nguyện của Thượng đế. Sức mạnh của chúng ảnh hưởng tới mọi thứ, cả các ngày trong tuần. Trước những thế lực siêu nhiên này, sự sống và nổ lực của con người trở nên vô vọng. Do đó, tôn giáo với người xưa là cách tìm niềm vui thoát ly thực tại tù túng ở Trái đất. Các hành tinh chị em với Trái đất và các ngôi sao nhỏ khác, Đàn ông, đàn bà chỉ là trò tiêu khiển của số phận và vận may; đó là chưa kể đến bệnh tật và ác quỷ. Nếu có thể tiếp cận với những vị thần tối cao nhất, dù không biết danh tính ngài, nơi đây có sự tồn tại thực sự và tự do, và hơn sự tự do, sự hòa nhập với Thượng đế. Tri thức này, anh có thể lĩnh hội, khi được truyền giảng; con người phải được thụ giáo …. (tiếp theo về tôn giáo độc lập với chính trị, cùng thời với Cơ đốc giáo)
Nguồn : 52 tập phim Văn Minh Phương Tây
Hiệp Hội Bảo tàng Nghệ thuật Đô Thị.
GS Eugen Weber, Giảng viên môn Lịch sử, U.C.L.A., Los Angeles