Văn hóa Việt Nam trong không gian văn hóa Đông Nam Á- một góc nhìn địa- văn hóa
Huỳnh Thiệu Phong (1) Đông Nam Á là một trong những địa bàn được xem như là cái nôi của nhân loại với sự hiện diện từ rất sớm của loài người. Đồng hành chung với tiến trình lịch sử của nhân loại, Đông Nam Á đã ngày càng trở thành một khu vực đa văn hóa với sự hiện diện đông đúc và ...
Huỳnh Thiệu Phong
(1) Đông Nam Á là một trong những địa bàn được xem như là cái nôi của nhân loại với sự hiện diện từ rất sớm của loài người. Đồng hành chung với tiến trình lịch sử của nhân loại, Đông Nam Á đã ngày càng trở thành một khu vực đa văn hóa với sự hiện diện đông đúc và đa dạng của nhiều dân tộc, quốc gia. Chính điều này đã góp phần làm cho Đông Nam Á đang dần trở thành một khu vực đặc sắc của thế giới. Văn hóa Đông Nam Á ngày nay vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa truyền thống vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả phương Đông lẩn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ của Đông Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái “khung” Đông Nam Á, song củng có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mổi quốc gia, mổi dân tộc. Nói cách khác văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng.
Việt Nam là một trong số những quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Trên chặng đường hình thành, tồn tại và phát triển, Việt Nam – với tư cách là một thành viên trong không gian văn hóa Đông Nam Á đã có những sự tiếp nhận, giao lưu và tiếp biến văn hóa với các quốc gia còn lại trong khu vực. Những giá trị văn hóa mà Việt Nam tiếp nhận thể hiện trong đó sự tương đồng, tương cận với những giá trị văn hóa của Đông Nam Á (hay ở đây, tôi gọi chúng là “hằng số văn hóa Đông Nam Á”). Những sự tương đồng và tương cận ấy không phải ngẫu nhiên, mà điều đó cho thấy tiến trình phát triển của các quốc gia đấy là cùng dựa trên một nền tảng, đó là yếu tố tự nhiên chi phối.
Vậy nên, bài viết này sẽ phân tích sự tương đồng và tương cận của văn hóa Việt Nam với văn hóa Đông Nam Á từ góc nhìn địa – văn hóa, tức xem yếu tố tự nhiên như nguồn cội của sự tương đồng giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa của toàn khu vực, qua đó góp phần làm rõ hơn luận điểm “Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ” như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định.
(2) Hiện nay, ý niệm về Đông Nam Á thường được tiếp cận đồng thời từ nhiều góc độ; hay nói cách khác, ta có thể hiểu Đông Nam Á vừa là một khu vực địa li-hành chính, song cũng có thể xem đây là một không gian văn hóa.
Theo một số quan điểm, nếu xem Đông Nam Á là một khu vực địa lí-hành chính thì nó bao gồm không gian của 11 quốc gia: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Phillipines, Malaysia, Singapore, Đông Timor, Indonesia và Brunei với tổng diện tích là hơn 4,5 triệu km2 và dân số xấp xỉ 600 triệu. Những quốc gia này cũng chính là các thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á – ASEAN (được thành lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1967).
Trái lại, nếu đi từ tiêu chí văn hóa, một số tác giả lại cho rằng không gian văn hóa Đông Nam Á lại rộng hơn, chúng bao hàm cả dãi đất kéo dài từ Đài Loan, qua nam Trung Quốc (từ phía Nam sông Dương Tử), vùng Đông-Bắc và Nam Ấn Độ. Cơ sở của nhận định trên bắt nguồn từ yếu tố thời tiết vì toàn bộ khu vực này bị chi phối bởi chế độ thời tiết khí hậu nhiệt đới, gió mùa của châu Á. Hơn nữa, từ trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lí – lịch sử – văn hóa – chính trị riêng biệt. Bởi nó đã bị lu mờ giữa hai nền văn minh phát triển rất rực rở là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Nhưng kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay, khu vực văn hóa Đông Nam Á ngày càng được công nhận rộng rải trong khoa học. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc dựng lại các vương triều, các nền văn minh cổ ở đây, mà Đông Nam Á đang từng bước được xem xét như một khu vực lịch sử – văn hóa – kinh tế – chính trị thật sự.
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tiếp cận Đông Nam Á như một không gian văn hóa.
Theo đó, khu vực Đông Nam Á từ xưa, trong các sách cổ của Ấn Độ đã được nói đến với những cái tên như Suvarnabhumi (đất vàng) hay Suvarnadvipa (Đảo vàng), người Trung Hoa thì gọi là Nam Dương, tương tự người Nhật Bản củng dùng từ Nan Yo để chỉ Đông Nam Á, tức Nam Dương như Trung Hoa, người Ả Rập gọi là Zabag, còn người Hy Lạp, La mã từ giữa thế kỷ II TCN cũng gọi là Chryse (đất vàng). Như vậy là từ xa xưa, thế giới đã biết đến khu vực văn hóa Đông Nam Á. Sở dĩ như vậy là vì tầm quan trọng về mặt vị trí địa lý của khu vực Đông Nam Á, vốn đã được chú ý đến từ rất lâu. Đông Nam Á thường được gọi là “ngã tư đường”, “hành lang” hay “cầu nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và Địa Trung Hải. Tuy vậy, chỉ từ sau Thế chiến thứ hai, khái niệm”Đông Nam Á” mới xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới để chỉ một khu vực riêng biệt nằm ở phía Đông Nam của châu Á và có tầm quan trọng đặc biệtvề địa chính trị.
Tính thống nhất về mặt văn hóa của khu vực và tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao hàm trong nó rất nhiều thành tố cả về vật chất lẩn tinh thần của văn hóa Đông Nam Á. Đương nhiên, trong quá trình phát triển, văn hóa Đông Nam Á đã tiếp thu nhều yếu tố mới từ bên ngoài mà tiêu biểu nhất là từ Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây. Nhờ sự giao lưu này, văn hóa Đông Nam Á đã đạt được những thành tựu mới mẻ trong quá trình phát triển của mình.
(3) Xét từ góc độ địa lí tự nhiên, Đông Nam Á hiện nay mang mấy đặc điểm nổi bật sau:
Một là về khí hậu: Đông Nam Á thuộc vùng Châu Á gió mùa với đặc trưng khí hậu nóng và ẩm. Một năm được phân biệt thành hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa (ở mỗi quốc gia khác nhau, sự phân bố của hai mùa này là có sự khác nhau). Độ ẩm cao. Đây cũng là khu vực có đường Xích đạo chạy qua, đồng thời có đường bờ biển bao quanh, vì vậy đã tạo ra khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều.
Hai là về hệ thực vật: chính từ đặc trưng khí hậu ấy đã giúp cho hệ thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú. Điều này cũng giúp cho Đông Nam Á trở thành khu vực có cảnh quan đặc trưng tiểu biểu nhất. Đông Nam Á có nhiều cánh rừng rậm rộng lớn với nhiều loài thảo mộc có giá trị kinh tế cao.
Ba là về nhiệt độ và lượng mưa: nhiệt độ trung bình hằng năm trong khoảng 20oC đến 27oC với lượng bức xạ mặt trời cao. Lượng mưa hằng năm lớn (1500mm đến 3000mm) và độ ẩm cao (trên 80%)
Bốn là về hệ thống sông ngòi: khá dày đặc, có nguồn từ các vùng núi rừng rộng lớn. Những con sông này đều có ý nghĩa kinh tế và xã hội. Có thể kể đến những con sông lớn như: sông Mêkong dài 4500km (đoạn chảy qua Đông Nam Á dài 2600km), sông Irawadi dài 2150km, sông Mênam dài 1200km… Những con sông này ngoài việc tạo ra giá trị kinh tế thông qua khai thác lợi thế thủy điện, chúng còn là cơ sở tạo nên những châu thổ với việc đem lượng phù sa màu mỡ vào bồi đắp cho các châu thổ ấy từ hằng triệu năm trước. Đây là một yếu tố rất quan trọng để thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển để qua đó, biến Đông Nam Á thành vựa lúa nói riêng và vựa cây lương thực nói chung của thế giới.
Chính từ những “hằng số” ấy đã tạo tác nên một nền “Văn minh Lúa nước” trứ danh khắp thế giới. Người ta đã khẳng định được rằng: trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ thì cư đân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản địa khá phát triển. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cây lúa hầu như có mặt ở tất cả các quốc gia Đông Nam Á. Nó xuất hiện rất sớm trong đời sống của cộng đồng cư dân vùng đất này. Có thể xem cây lúa nước là nền tảng để cấu tạo nên văn minh Đông Nam Á. Mặc dù không được những vùng châu thổ rộng lớn như Ấn Độ và Trung Quốc do những con sông lớn tạo thành, nhưng Đông Nam Á cũng đã và đang trở thành vựa lúa của thế giới như đã đề cập ở trên. Cho đến nay, với bao biến đổi trên nhiều bình diện, ta vẫn không thể phủ nhận vai trò của cây lúa trong việc góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của cả khu vực; và Đông Nam Á vẫn đang giữ vị trí đứng đầu trong việc xuất khẩu gạo.
(4) Với những đường nét cơ bản về yếu tố tự nhiên của không gian địa lí Đông Nam Á đã được dẫn giải ở trên, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một cụm từ khi chỉ về giá trị văn hóa Đông Nam Á, đó là: “Thống nhất trong đa dạng”; và hiển nhiên, nhận định ấy đã bao hàm cả Việt Nam trong đó. “Thống nhất trong đa dạng” là khẩu hiệu quốc gia của Indonessia. Thời kỳ mới giành độc lập để xây dựng được một quốc gia thống nhất trong bối cảnh về địa lý quốc gia này có hàng ngàn hòn đảo, về mặt tộc người có hàng trăm nhóm, về tư tưởng, văn hóa thì có vô vàn sự khác biệt… Indonesia đã đưa ra khẩu hiệu “Bhinneka Tunggal Ika”. Nghĩa đen của khẩu hiệu này là: “nhiều nhưng là một”, nội hàm này cũng có thể hiểu là “thống nhất trong đa dạng”. Khi nghiên cứu, các nhà nghiên cứu thường mượn ngữ nghĩa của khẩu hiệu này để mô tả hiện trạng bức tranh văn hóa của các dân tộc Đông Nam Á. Để hiểu biết chi tiết về vấn đề này cần nhiều thời gian.
Sự tương đồng và tương cận giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Đông Nam Á nằm trong một biên độ rất rộng. Tôi cho là như vậy. Việc phân tích những tương đồng và tương cận ấy là một thao tác không đơn giản vì để tìm ra những tương đồng ấy, chúng ta phải đặt ra các tiêu chí dựa vào các thành tố văn hóa. Song, một thực tế cho thấy là hiện nay, các quan điểm phân loại thành tố văn hóa vẫn chưa có hồi kết. Vì vậy, trong bài viết này, tôi chỉ chỉ ra những giá trị văn hóa có sự tương đồng lẫn nhau giữa Việt Nam và Đông Nam Á, có chịu sự chi phối từ yếu tố tự nhiên mà thôi.
Trước tiên, diện tích của Việt Nam bằng khoảng 1/13 tổng diện tích của Đông Nam Á; hơn nữa, nếu Đông Nam Á được xem như là “cầu nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và Địa Trung Hải thì Việt Nam lại tọa lạc ngay trung tâm của Đông Nam Á. Chính vị trí này đã tạo ra rất nhiều thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa. Nhìn từ yếu tố địa hình, Việt Nam sở hữu các loại địa hình tương đối đa dạng, vừa có đồng bằng, vừa có cao nguyên, vừa có biển. Điều này đã khiến cho nhiều người liên tưởng và đồng ý với quan điểm cho rằng Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ.
Mặt khác, vì nằm trong khu vực Đông Nam Á nên Việt Nam cũng gần gũi và chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Đây là hai nền văn minh lớn, dẫn dắt cho toài khối Đông Nam Á.
Với thực tiễn như vậy, có thể nhìn thấy các điểm tương đồng, tương cận giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Đông Nam Á như sau:
Một là, về phong tục tập quán: Ở Đông Nam Á có đến hằng trăm dân tộc khác nhau, vì thế phong tục, tập quán rất đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song những tập tục ấy vẫn có nét gần gủi, tương đồng nhau, là mẫu số chung quy tụ, giao thoa trên nền tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á – Một nền tảng văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cách ăn mặc với một bộ trang phục là Sàrông (váy), khố, vòng đeo, vòng đeo cổ… Đó là tục ăn uống với các thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả (hiện nay, thịt ngày càng quan trọng trong cuộc sống hiện đại). Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình. Tục chôn với người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà khi còn sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả các trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền, … Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu vực Đông Nam Á.
Hai là, sinh sống trong khu vực bị chi phối bởi hệ thống khí hậu nhiệt đới, gió mùa, các cư dân Đông Nam Á đã sáng tạo nên những nền văn hoá tộc người và địa phương đa dạng, phong phú trên cơ tầng chung của văn hoá nông nghiệp. Họ chủ yếu sống bằng lúa gạo, với hai hình thức canh tác: ruộng nước và nương rẫy; thuần dưỡng trâu, bò làm sức kéo; các bộ công cụ lao động và các hệ thống thủy lợi, dựa theo nguyên lý tự chảy của dòng nước được xây dựng hết sức đa dạng phù hợp với các môi trường sinh thái thành ở đồng bằng, vùng thung lũng chân núi, vùng sườn dốc…
Ba là, về lễ hội: Củng giống như sự đa dạng của phong tục, tập quán. Có thể nói, ở mổi dân tộc mùa nào, tháng nào trong năm củng có lể hội. Nếu thống kê con số lể hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng trăm. Tất nhiên, trong sự đa dạng ấy, các lể hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập trung vào ba hình thức chính: Lễ hội nông nghiệp (Như lễ xuống đồng của người Việt, lễ mở đường cày đầu tiên của người Thái, lễ dựng chòi cày của người Chăm,…), lễ hội tôn giáo (như lễ hội chùa Keo, chùa Hương ở Việt Nam,…), lễ tết (như Tết Nguyên đán,…).
Bốn là, về tín ngưỡng bản địa: Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra và lớn lên trong một khu vực địa lí, văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẽ nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Các cư dân Đông Nam Á như ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanma, Indonesia,… thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,…), tín ngưỡng phồn thực (thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…), tín ngưỡng thờ cúng người đã mất (tục thờ cúng tổ tiên, ông bà). Cái chung đó xuất phát từ thuyết vạn vật hữu linh, tức thuyết mọi vật đều có hồn.
Năm là, một bộ phận cư dân Đông Nam Á rất thạo các nghề trong môi trường sông nước, họ đánh bắt cá và các loài thủy hải sản khác trên sông, trên các hồ và đầm phá cũng như ở các vùng biển gần bờ. Bên cạnh đó, thuyền bè đối với cư dân Đông Nam Á là vô cùng ưu dụng.
Sáu là, ta còn có thể thấy những điểm tương đồng khác như: ngành nghề thủ công như: dệt nhuộm (lụa và các loại coton, sợi bả, sợi chuối, sợi dứa…), đan lát, làm gốm, sơn mài, điêu khắc gỗ, kim hoàn… rất phát triển. Đây là khu vực đa dạng các hình thức trình diễn dân gian như rối bóng, rối nước; âm nhạc truyền thống và các loại nhạc cụ rất gần với thiên nhiên.
Bảy là, con người Đông Nam Á rất xem trọng giá trị gia đình, tinh thần kính trọng người già được đề cao, tổ tiên được coi trọng; truyền thống cộng đồng làng/bản bền chặt.
(5) Quay trở lại với cụm từ “Thống nhất trong đa dạng”, một thực tế dễ nhận biết đó là biểu hiện của các giá trị văn hóa tại các quốc gia là rất khác nhau, song chúng đều có điểm phát xuất là do yếu tố tự nhiên chi phối. Chẳng hạn, ví dụ các cư dân Đông Nam Á đều là cư dân nông nghiệp, lấy lúa gạo làm nguồn lương thực chính-đấy là thống nhất. Nhưng xung quanh việc canh tác cây lúa thì lại rất đa dạng: canh tác lúa nước ở vùng đồng bằng với canh tác lúa nước ở vùng thung lũng chân núi lại khác nhau: về hệ thống thủy lợi, về công cụ, về giống lúa về qui trình canh nông, về các nghi lễ liên quan cũng tương tự như vậy!
Hay ví dụ khác, trong truyền thống đa phần cư dân Đông Nam Á đều ở nhà sàn, đấy là thống nhất. Nhưng trong thực tế có vô vàn loại hình nhà sàn: nhà sàn ở vùng sườn dốc khác với nhà sàn ở vùng đất bằng, nhà sàn làm ở vùng khô khác với nhà sàn làm ở các vùng đầm lầy, ngập nước; nhà sàn dài khác nhà sàn ngắn, chưa nói là tập quán sống trong các loại nhà sàn khác nhau của các nhóm cư dân khác nhau là vô cùng đa dạng.
Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hóa Đông Nam Á, chúng ta đều có thể thấy một sự thống nhất trong muôn hình muôn vẽ sự tồn tại đa dạng của chúng ở các dân tộc Đông Nam Á.
Có thể khẳng định Đông Nam Á có có một bản sắc văn hóa riêng và ngày càng tiến bộ. Các quốc gia thuộc Đông Nam Á hiện nay đang phát triển kinh tếhết sức nhanh chóng và mạnh mẽ. Mà văn hóa là động lực quan trọng nhất của của sự phát triển một nước, một khu vực. Với bề dày văn hóa mang bản sắc chung, đặc sắc, các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ tiến xa hơn nửa, đạt được nhiều thành tựu mới trong tương lai, Đông Nam Á sẽ trở thành một khu vực hòa bình, ổn định, một khu vực phát triển, thịnh vượng của thế giới./.
H.T.P
Sài Gòn, 29.03.2017