24/05/2018, 17:35

Văn học đời tây sơn

Văn học đời Tây Sơn là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn từ năm 1788 đến những năm 1802. Do hoàn cảnh lịch sử, trong cùng thời gian cuối thế kỷ 18 có nhiều biến ...

Văn học đời Tây Sơn là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn từ năm 1788 đến những năm 1802.

Do hoàn cảnh lịch sử, trong cùng thời gian cuối thế kỷ 18 có nhiều biến động và sự tồn tại song song của nhiều chính thể, nhiều trong số những tác gia thời Tây Sơn là những người vốn hoạt động trong thời Hậu Lê hoặc là người tiếp tục sáng tác trong thời nhà Nguyễn sau này.

Hịch Tây Sơn được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu, sáng tác khi quân Tây Sơn tiến ra bắc diệt chúa Trịnh với danh nghĩa “phù Lê”, với lời lẽ vạch tội ác của họ Trịnh và nêu lên chính nghĩa của quân Tây Sơn. Nội dung bài hịch Tây Sơn không mang tính chính thống như Hịch Lê Duy Mật, song lại bao hàm ý chí mang lại thái bình cho đất nước cùng việc giúp vua Lê.

Sau Hịch Tây Sơn, bài ca Ai tư vãn của hoàng hậu Lê Ngọc Hân và bài tế vua Quang Trung của Phan Huy Ích, Phú tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng là những bài trong số ít những tác phẩm chữ Nôm còn lại của thời kỳ này.

Ai tư vãn của Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân là bài thơ khóc vua Quang Trung sau cái chết đột ngột của ông. Bài thơ đề cao sự nghiệp của Quang Trung, được đánh giá là bài thơ trường thiên có giá trị trong kho tàng văn học Việt Nam[1].

Trong số những bài văn tế trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích ghi chép, được các nhà nghiên cứu xác định rằng có thể là tập hợp những bài tế của cả vua Cảnh Thịnh, những người con khác của vua Quang Trung và bà Nguyễn Thị Huyền (mẹ Lê Ngọc Hân) làm[1].

Phú tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng được xem là tác phẩm tiêu biểu với đề tài ca ngợi đất nước dưới triều Tây Sơn, được sáng tác trong hoàn cảnh vua Quang Trung vừa đánh đuổi quân Thanh. Bài phú được đánh giá là có những lời văn điêu luyện và truyền tụng nhiều trong giới văn sĩ Bắc Hà[1].

Ngoài những tác phẩm đứng về phía triều đại, thời Tây Sơn do hoàn cảnh lịch sử có những tác gia phản kháng, điển hình là Hoàng Quang với Hoài Nam ca khúc. Hoàng Quang đứng trên lập trường theo chúa Nguyễn chống Tây Sơn, nội dung bài ca biểu thị lòng nuối tiếc cựu triều.

Khuynh hướng của thơ văn chữ Hán thời Tây Sơn chủ yếu là hiện thực, lạc quan và bi quan bảo thủ, phản ánh hiện trạng xã hội lúc đó[2].

Hiện thực

Tiêu biểu cho khuynh hướng phê phán hiện thực là Nguyễn Du. Sau thời kỳ làm quan cho nhà Hậu Lê, ông đã bỏ về ở ẩn; sau đó đến thời Tây Sơn tuy không nhận lời làm quan cho nhà Tây Sơn nhưng có giúp việc cho Viện Sùng chính. Tác phẩm ông để lại gồm 100 bài thơ trong tập Hạnh Am thi cảo, phản ánh tâm tư của ông: chán thế sự từ thời trẻ, không muốn theo đuổi công danh sự nghiệp. Thơ của ông phản ánh sự bất lực của kẻ sĩ trước thời cuộc.

Nguyễn Du đã trốn tránh không ra làm quan với nhà Tây Sơn, sáng tác tập thơ Nam Trung tạp ngâm, phản ánh tiếng nói của người bất đắc chí. Ông nêu rõ mâu thuẫn xã hội giữa giàu và nghèo, giữa thống trị và bị trị với những lời lẽ thông cảm sâu sắc[3].

Lạc quan

Những tác gia tiêu biểu cho khuynh hướng ủng hộ triều đại Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Vũ Huy Tấn, Phan Huy Ích…

Ngô Thì Nhậm bỏ nhà Hậu Lê ra làm quan với nhà Tây Sơn. Ông có vai trò lớn trong công tác ngoại giao với nhà Thanh để lập lại hòa bình sau cuộc chiến giữa hai nước. Ông là tác giả nhiều văn thư ngoại giao của nhà Tây Sơn với nhà Thanh.

Ninh Tốn đề cao vai trò của Nho sĩ, thể hiện niềm tin vào cuộc sống hiện tại. Tác phẩm ông để lại là Chuyết Am thi tập.

Vũ Huy Tấn là Thượng thư Bộ Công nhà Tây Sơn. Tác phẩm của ông có Hoa trình tùy bộ tập, tập hợp những bài thơ trong những lần đi sứ. Lời thơ ông thể hiện ý thâm trầm, lời lẽ thanh thoát, chứa đựng niềm lạc quan yêu đời. Trong lần đi sứ phưong bắc, ông đã đáp lại những câu thơ khinh miệt của viên lại mục nhà Thanh, không chịu để nhục quốc thể[4].

Phan Huy Ích làm Thượng thư Bộ Lễ nhà Tây Sơn, để lại Dụ Am văn tập và Dụ Am thi tập. Trong số các tác phẩm của ông cũng có tập hợp những bài thơ đi sứ nhà Thanh năm 1789. Mặc dù cuộc đời lắm gian truân nhưng Phan Huy Ích không thể hiện sự bất mãn. Lời thơ ông chứa đựng sự lạc quan, tin tưởng, coi việc bỏ triều Lê - Trịnh theo Tây Sơn là lẽ thường tình[5].

Bi quan

Sự buồn chán trước thế sự biểu hiện trong một số nhà thơ thời kỳ này, tiêu biểu là:

Trần Danh Án với Liễu Am Tán ông thi tập (hay Bảo Triện Trần tiên sinh thi tập)

Phạm Quý Thích với Thảo đường thi nguyên tập, Hoa đường Phạm Lập Trai di thảo

Nguyễn Hành với Quan hải thi tập, Minh quyên thi phả, Thiên địa nhân vật sự thi

Thơ của những tác giả này chứa đựng sự u uất, băn khoăn của thi sĩ quý tộc trước thời cuộc. Phần lớn họ xuất thân từ tầng lớp quan lại quý tộc đang bị sa sút, không muốn nhìn thấy sự đổi thay của thời thế mà hoài vọng vị thế trước đây của gia đình, dòng tộc[6].

0