Vận dụng các chỉ tiêu trên vào phân tích giá trị sản xuất công nghiệp trong thời kỳ 2000
Nhận xét Kết quả tính toán trên cho thấy quy mô giá trị sản xuất công nghiệp (Go) của Bình Lục - Hà Nam trong thời kỳ (2000-2004) tăng lên với số lượng lớn: Lượng tăng tuyệt đối bình quân hàng năm của thời kỳ (2000-2004) ...

Nhận xét Kết quả tính toán trên cho thấy quy mô giá trị sản xuất công nghiệp (Go) của Bình Lục - Hà Nam trong thời kỳ (2000-2004) tăng lên với số lượng lớn:
- Lượng tăng tuyệt đối bình quân hàng năm của thời kỳ (2000-2004) là 2,9275 (tỷ đồng).
Có được kết quả này là do sự cố gắng rất lớn của mỗi doanh nghiệp của địa phương. Bên cạnh đó nhờ thực hiện một số chương trình quốc gia về nâng cấp cơ sở hạ tầng… tạo mọi điều kiện cho ngành công nghiệp tăng trưởng cao. Hơn nữa là do cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường của các cơ sở trong sự chỉ đạo của các cán bộ quản lý kinh tế của Hà Nam. Giá trị sản xuất công nghiệp của Bình Lục - Hà Nam đã đóng góp phần không nhỏ vào GTSX công nghiệp của cả nước, để đất nước Việt Nam đến 2010 trở thành một đất nước "công nghiệp hoá - hiện đại hoá). Các cán bộ quản lý của Bình Lục - Hà Nam dã đưa ra các chương trình, kế hoạch cụ thể, nhằm khai thác một số ngành công nghiệp mũi nhọn như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, vật liệu xây dựng…
- Tốc độ phát triển bình quân hàng năm: 124,2%.
- Tốc độ tăng bình quân hàng năm là 24,2%
Trong 5 năm qua tốc độ phát triển của giá trị sản xuất của công nghiệp tăng nhưng chậm, nhưng giá trị 1% tăng lên năm sau cao hơn năm trước. Điều đó thể hiện qua bảng 2.
Nhận xét Trước tình hình tốc độ tăng trưởng công nghiệp Việt Nam nói chung và tình hình của Bình Lục - Hà Nam nói riêng.
Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm kích thích sản xuất và đầu tư trong ngành công nghiệp. Chính vì vậy mà ngành công nghiệp Bình Lục - Hà Nam đã được cải thiện một cách rõ nét biểu hiện cụ thể:
- Năm 2004 so với năm 2003 tăng 13,36%.
- Do tăng trưởng và phát triển sản xuất công nghiệp đã góp phần vào nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội.
Trong thời gian tới, các cán bộ quản lý trong ngành kinh tế, nhất là trong công nghiệp cần phải có chính sách, mục tiêu rõ ràng, cụ thể hơn nữa để tạo mọi điều kiện cho ngành công nghiệp phát triển.
Thực tế cho thấy trong nội bộ ngành công nghiệp cũng có sự chuyển dịch tích cực, bước đầu tạo ra cơ cấu hợp lý, tạo mọi điều kiện cho đầu tư phát triển của ngành công nghiệp, để trở thành ngành mũi nhọn trong cả nước.
Tình hình biến động giá trị sản xuất các ngành công nghiệp được thể hiện qua bảng số liệu sau:

Để phân tích tình hình biến động giá trị sản xuất công nghiệp phân theo ngành I.
Nhận xét Qua bảng tính toán cho thấy trong 3 ngành công nghiệp phân theo ngành I thì ngành công nghiệp khai thác có giá trị sản xuất và tốc độ tăng bình quân hàng năm là lớn nhất trong 2 ngành còn lại là 16,74(%) hay tăng 31920 triệu đồng.
Tuy nhiên thì thấy tốc độ tăng bình quân của cả 2 ngành công nghiệp có tốc độ phát triển gần xấp xỉ như nhau biểu hiện:
- CN khai thác: 17,74%
- CN chế biến: 15,33%
- CN điện, ga, nước: 16,18%
Ngành công nghiệp khai thác có tốc độ giảm đi biểu hiện:
- Năm 2001 là 25,33% (35563 triệu đồng).
- Năm 2004 là 13,89% (32761 triệu đồng).
Ngành công nghiệp chế biến lại tăng nhanh qua 4 năm thể hiện:
- Năm 2001 là 8,45% (721654 triệu đồng).
- Năm 2004 là 25,52% (3147492 triệu đồng).
Ngành công nghiệp điện, ga, nước thì tốc độ phát triển tăng không đáng kể, đến năm 2002 có xu hướng tăng chậm sau đó lại tăng đều thể hiện:
- Năm 2001 là 17,9% (139778 triệu đồng).
- Năm 2002 là 10,61% (97741 triệu đồng)
- Năm 2004 là 19,77% (238108 triệu đồng).
Vì vậy, trong thời kỳ này, các ngành chế biến có giá trị sản xuất cao đó là sản phẩm thực phẩm, đồ uống, dệt, sản xuất các máy móc thiết bị sản xuất và nhất là ngành sản xuất kim loại, sản xuất dụng cụ phục vụ y tế.
Với sự phát triển tương đối ổn định của công nghiệp chế biến nhiều sản phẩm tiêu dùng không những đáp ứng đủ nhu cầu địa phương mà còn xuất đi các nơi khác và một số ngành được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài như dệt may, giầy dép, linh kiện điện tử…
Tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Bình Lục - Hà Nam 3 năm lại đây có xu hướng chậm do các doanh nghiệp ít chú trọng hướng ngoại mà thường xuyên nhằm sản xuất thay thế những mặt hàng nhập khẩu, để tạo ra giá trị sản xuất lớn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và nhu cầu xuất khẩu ra nước ngoài.

Nhận xét Qua số liệu trên thì ta thấy đối với khu vực trong nước thì một số ngành sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng cao qua các năm như sản phẩm từ phi kim loại, sản xuất máy móc thiết bị điện, sản xuất thực phẩm… Nếu xét trong cơ cấu ngành công nghiệp theo ngành kinh tế thì ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất trong địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Ngành sản xuất công nghiệp trong khu vực kinh tế trong nước đều có xu hướng giảm từ 2001 là 82,73%; năm 2004 là 69,25%
Nguyên nhân giảm này là do quy trình, máy móc thiết bị lạc hậu, cũng như tay nghề của người lao động làm việc còn thấp, chưa cao, cho nên chất lượng sản phẩm công nghiệp chưa tốt, chưa chiếm thị trường so với hàng sản xuất công nghiệp của nước ngoài nhập khẩu vào. Mặt hàng cũng do nhiều hàng lậu từ Trung Quốc nhập vào nước ta.
Ngành công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng cao, ngày càng tăng nhanh. Do đất nước ta đang thực hiện mục tiêu đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Biểu hiện năm 2001 chiếm 17,27%
2002 chiếm 31,36%
2003 chiếm 33,58%
2004 chiếm 30,75%
Với quá trình đang trên đường hội nhập kinh tế quốc tế, thì ngành công nghiệp sẽ mang lại giá trị cao, để hoà nhập sự phát triển của khu vực và thế giới.