Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại
Trên thế giới, lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế đã đòi hỏi sự phát triển của Ngân hàng và đến lượt mình sự phát triển của Ngân hàng lại thúc ...
Trên thế giới, lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế đã đòi hỏi sự phát triển của Ngân hàng và đến lượt mình sự phát triển của Ngân hàng lại thúc đẩy sự tăng trưởng của kinh tế.
Nguồn gốc ra đời của nghiệp vụ Ngân hàng được bắt đầu từ nhiều cách song nhìn chung lại Ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan và đã trở thành một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế bất kỳ. Có thể định nghĩa Ngân hàng, tuỳ thuộc vào chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện song càng ngày các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi nên khái niệm để phân biệt Ngân hàng với các hình thức khác chỉ mang tính tương đối.
Trong đề tài nghiên cứu này đứng từ giác độ xem xét các tổ chức này trên phương diện các hoạt động của Ngân hàng thì “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”.
Trong quá trình phát triển trải qua nhiều thất bại và dưới sự tác động của nhiều yếu tố: công nghệ, điều kiện cụ thể của mỗi nước... mà hoạt động của ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh: đa dạng hoá các loại hình Ngân hàng và các hoạt động Ngân hàng. Sự tách rời giữa các chức năng điều tiết, quản lý với các chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng là một bước tiến mới của ngành Ngân hàng. Và quá trình phát triển của Ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các Ngân hàng trên tầm quốc tế.
ở Việt nam ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam, với tổng giám đốc đầu tiên là cố phó Chủ Tịch Nguyễn Lương Bằng, chính thức khai sinh một ngành kinh tế rất trọng yếu của Nhà nước - ngành Ngân hàng. Ngân hàng quốc gia Việt nam ban đầu có những nhiệm vụ chủ yếu là: quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý kho bạc nhà nước, huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, quản lý các hoạt động tín dụng bằng biện pháp hành chính, quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngày 21/1/1960 Ngân hàng quốc gia Việt nam được đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt nam, đến năm 1975 các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế cũng như hệ thống tiền tệ -Ngân hàng theo mô hình ở miền Bắc đã áp dụng thống nhất trong cả nước. Song do nhiều nguyên nhân mà trong nhiều năm liên tục, cán cân thanh toán quốc tế bội chi rất lớn, kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, tình hình tài chính tiền tệ căng thẳng, lạm phát phi mã tới 3 con số (774%), sản xuất đình trệ ... Đại hội Đảng lần thứ 6 đã đề ra đường lối đổi mới cho đất nước, 2 pháp lệnh ngân hàng đươc công bố ngày 24/5/1990 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định sự thay đổi mạnh mẽ của ngân hàng: Từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp. Ngân hàng nhà nước Việt nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và là ngân hàng Trung Ương, hệ thống Ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh. Hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, qua thực tiễn đã yêu cầu đưa hoạt động Ngân hàng vào khuôn khổ pháp luật cao hơn, hai pháp lệnh Ngân hàng đã được tổng kết, nâng lên thành hai luật được thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Từ đây, ngành Ngân hàng đã đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc và phát triển ngày càng lớn với 4 ngân hàng thương mại quốc doanh 31chi nhánh của 26 Ngân hàng nước ngoài, 4 Ngân hàng liên doanh, 35 ngân hàng thương mại cổ phần, 959 quỹ tín dụng nhân dân và một số công ty tài chính khác. Các nghiệp vụ Ngân hàng đã trở nên sâu rộng, đa dạng, phong phú và tăng lên nhanh chóng, huy động vốn tăng gấp trên 1000 lần so với năm 1986 và gấp 21lần so với năm 1990, cho vay nền kinh tế tăng gấp 28 lần so với năm 1990