25/05/2018, 00:42

Vai trò tín dụng ngân hàng ở Việt Nam

Các thể chế tài chính. Các thể chế này cần có một số thủ tục và tài sản thế chấp có tính chất pháp lý. Tuy nhiên, nó có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu vay vốn và hạn chế tối đa nạn cho vay nặng lãi, chơi hụi… Lãi ...

Các thể chế tài chính.

Các thể chế này cần có một số thủ tục và tài sản thế chấp có tính chất pháp lý. Tuy nhiên, nó có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu vay vốn và hạn chế tối đa nạn cho vay nặng lãi, chơi hụi… Lãi suất được áp dụng một cách hợp lý đối với các ngành nghề sản xuất, và thời gian hoàn trả, thực tế cho thấy hộ sản xuất sẽ không đủ vốn sản xuất hoạt động nếu không có thể chế này. Thể chế này tồn tại nhiều hình thức cụ thể là:

  • Tín dụng ngân hàng: Hình thức tín dụng này đáp ứng nhu cầu vay vốn của mọi thành phân kinh tế. Bao gồm cả cho vay trực tiếp, gián tiếp, cho vay cầm cố, thé chấp. để hỗ trợ cho sản xuất cho nông nghiệp theo chỉ thị số 202 ngày 28/06/1991 của HĐBT cho Tổng giám đốc, giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Được cụ thể hoá bằng các công văn số 495 TĐ NH ngày 2/9/95 trên cơ sở đó các văn bản tiếp tục hoàn thiện và mở rộng tín dụng nông thôn và công văn số 499A ngày 02/03/1993 chính phủ ra quyết định chính sách cho vay vốn hộ sản xuất để phát triển Nông - Lâm - Ngư - Diêm nghiệp và kinh tế nông thôn. Với chính sách ưu đãi này các hộ sản xuất được ưu đãi về vốn, thời hạn, lãi suất.
  • Các quỹ tín dụng là tổ chức tài chính đứng ra huy động vốn, tài chính tạm thời nhàn rỗi trong dân và tìm kiếm đầu tư đem lại lợi nhuận, tuy nhiên khách hàng của quỹ tín dụng là các cán bộ, công nhân viên chức và nông dân…có lượng tiền nhàn rỗi và nhu cầu vay vốn để sản xuất nhỏ, và chăn nuôi không lớn.

Quỹ tín dụng chỉ thực hiện chức năng nhận gửi và cho vay không có nghiệp vụ thanh toán. Khách đến với quỹ tín dụng là người có nhu cầu về vốn nhưng không đáp ứng đủ những điều kiện của ngân hàng đề ra. Quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng hoạt động theo cơ chế bao cấp, trung gian phát vốn từ trên xuống. Do cơ chế quản lý lỏng lẻo, không kiểm soát của lãnh đạo mà nguồn tiền gửi vào thường bị sử dụng sai mục đích. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường thì các quý tín dụng bị đổ vỡ hàng loạt gây mất ổn định nền kinh tế xã hội một thời gian. Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 330 TTG cho phép thành lập quỹ tín dụng nhân dân thay thế hệ thống cũ. Quỹ tín dụng này không thành lập tràn lan, được tổ chức cho hoạt động thí điểm và sau đó cấp giấy phép hoạt động chính thức.

Quỹ tín dụng nhân dân hiện nay trở thành trung gian tài chính cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất. Hơn nữa việc cho vay gián tiếp qua quỹ tín dụng nhân dân sẽ giảm được chi phí nghiệp vụ cho ngân hàng, tăng hiệu quả của cơ chế cho vay tới hộ sản xuất.

Tín dụng xoá đói giảm nghèo.

Ngân hàng người nghèo nay là ngân hàng chính sách xã hội được thành lập ra nhằm cho vay đối với hoọ nghèo lãi suất thấp, nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. nó hoạt động dựa trên các chi nhánh của hệ thống ngân hàng, vươn tới tất cả các xã của nông thôn Việt Nam.

Các chương trình tín dụng theo dự án cho vay của các tổ chức quốc tế.

  • Tổ chức hỗ trợ phát triển quốc tế của Thuỵ Điển (SIDA) tài trợ vốn cho hội phụ nữ, cho các hội viên vay để phát triển kinh tế gia đình.
  • Chương trìch tài trợ EC tài trợ cho những người hồi hương và người nghèo ở Việt Nam. Mục đích giúp đỡ người hồi hương ổn định được cuộc sống để tái hoà nhập với cộng đồng. Bằng việc đào tạo nghề, đầu tư dự án nhỏ, sắp xếp việc làm. hoạt động của chương trình này rất đáng được quan tâm nghiên cứu để vận dụng vào cho vay hộ sản xuất. Chính những tài sản do món vay mua là tài sản thế chấp cho vay và phạm vi cho vay.
  • Mới đây ngân hàng thế giới WB đã giúp chúng ta thực hiện dự án WB 2561 cho người nghèo ở nông thôn vay vốn để phát triển sản xuất, đến nay dự án này đang được phát triển tốt bên cạnh ngân hàng phục vụ người nghèo.

Để thúc đẩy nông thôn nước ta phát triển, vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay và mai sau. Nông thôn và nông dân đang rất thiếu vốn để phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề và dịch vụ. Vì vậy đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp, tín dụng Ngân hàng có những vai trò chủ yếu sau.

* Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành thị trường tài chính ở nông thôn.

Nước ta là một nước nông nghiệp với khoảng 80% dân số ở nông thôn, với 10 triệu hộ sản xuất Nông - Lâm - Ngư - Diêm nghiệp đã sản xuất ra gần 50 % tổng sản phẩm xã hội. Chuyển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá thì vấn đề đặt ra là phải hình thành thị trường đồng bộ ở nông thôn vì đây là một địa bản rộng lớn, nơi có sức mua và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của công nghiệp, vừa là nơi cung ứng sản phẩm hàng hoá, nông sản cho tiêu dùng cả nước, nguyên liệu cho chế biến và là nơi cung cấp nguồn lao động dồi dào cho nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, việc hình thành thị trường tài chính ở nông thôn là một đòi hỏi bức súc nhằm tạo động lực cho sự phát triển.

Thị trường tài chính nông thôn bao gồm thị trường vốn và hoạt động tín dụng cho nên tín dụng ngân hàng là cầu nối trung gian giữa người cần vốn và người cung ứng vốn, nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong phạm vi khác nhau có thể có vùng, khu vực cần vốn và có khu vực khác thì chưa cần vốn, cho nên tín dụng cần phải điều hoà giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn. Trong việc điều hoà vốn này, hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn có nhiều khả năng hơn vì nó có mạng lưới kinh doanh rộng khắp ở các vùng nông thôn với hệ thống chân rết tới từng huyện, xã và thôn xóm trong cả nước.

* Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn duy trì sản xuất.

Trong quá trình sản xuất hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời thường xuyên sảy ra ở các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng góp phần phân phối điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. đồng thời tín dụng ngân hàng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để đầu tư cho sản xuất, tạo thu nhập cho người có vốn. Nó là động lực thúc đẩy tính tiết kiểm của dân cư và là phương pháp đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất. Nó là nguồn động lực không thể thiếu để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.

Trong điều kiện nước ta hiện nay cơ cấu nền kinh tế còn có nhiều bất hợp lý, tình trạng lạm phát, thất nghiệp còn ở mức độ cao, thông qua tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tổ chức sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác, qua đó phát triển sản xuất, sử dụng hợp lý nguồn lực, tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Hoạt động của tín dụng ngân hàng là huy động nguồn tiền tệ nhàn rỗi chưa được sử dụng, đang phân tán ở các thành phần kinh tế..., để bổ sung cho các thành phần cần vốn để phát triển sản xuất. Nhưng không phải là rải đều cho mọi chủ thể mà cần đầu tư tập trung, có trọng điểm cho đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đảng. Đầu tư tập trung, có chọn lọc là quá trình tất yếu của quá trình kinh doanh tiền tệ nhằm đảm bảo an toàn phát triển cho đồng vốn, hạn chế rủi ro, ổn định và tăng trưởng kinh tế xã hội. Có như vậy chúng ta mới tập trung được vốn để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, tạo đà kéo theo sự phát triển của các ngành khác như: sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí.

  • Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn.

Vùng nông thôn là vùng sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết của xã hội, đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và là các ngành chịu sự tác động mạnh nhất cảa thiên nhiên, cơ sở hạ tầng của nó cần có đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài... cần được tín dụng ưu đãi.

Đối với hộ nông dân, kết quả của hộ trông chờ trên từng mảnh đất họ canh tác, rủi ro rất lớn. ở nông thôn trước đây số lượng lớn các hợp tã xã tín dụng cùng các tổ chức cho vay nặng lãi, góp vốn, đóng hụi phát triển mạnh mẽ, hoạt động đan xen lợi dụng lẫn nhau, gây nhu cầu khẩn trương giả tạo về tiền tệ. Do hoạt động không có hiệu quả, chủ yếu là lừa đảo chiếm đoạt vốn của bà con nông dân nên hàng loạt các hợp tác xã tín dụng, chủ hụi tan rã và phá sản.

Trong khi các hợp tác xã tín dụng tan rã, hợp tác xã nông thôn chỉ tồn tại trên danh nghĩa thì chính sách cho vay vốn trực tiếp của ngân hàng tới sản xuất như nguồn nước mát làm dịu cơn khát vốn của hộ sản xuất nông nghiệp. Tín dụng ngân hàng cho vay trực tiếp tới hộ, cùng với chế độ lãi suất ưu đãi không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn trong sản xuất mà còn khuyến khích người sản xuất có thể mở rộng đầu tư, làm giầu trên thửa ruộng, mảnh vườn mà họ có quyền sử dụng.

  • Tín dụng ngân hàng kiểm soát đồng tiền và thúc đẩy hộ sản xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế.

Ngân hàng với tư cách là trung tâm tiền tệ, tín dụng thanh toán, thông qua các nghiệp vụ thanh toán có thể kiểm soát bằng đồng tiền mọi hoạt động của nền kinh tế.

Trước khi cho vay, cán bộ tín dụng phải nắm đước toàn bộ tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất có nhu cầu xin vay, về những biến động trong thời kỳ sản xuất, có khả năng lao động, kỹ năng sản xuất, tình hình vốn tự có. Cán bộ tín dụng phải theo dõi xem trong quá trình sử dụng vốn vay nhà sản xuất có sử dụng vốn đúng mục đích hay không? Có thu được hiệu quả từ việc sử dụng vốn hay không? Thông qua đó cán bộ ngân hàng nắm bắt được khả năng thực sự của từng hộ để có chính sách đầu tư cho những hộ làm ăn có hiệu quả, hay hỗ trợ khuyến khích kịp thời cho các hộ khó khăn mà biết năng động sáng tạo trong sản xuất. Từ đó tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được toàn diện các hoạt động của hộ sản xuất.

Cũng chính qua việc đầu tư vốn cho các hộ sản xuất, tín dụng ngân hàng đã giúp cho các hộ làm quen và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Bởi vì trong nền sản xuất hàng hoá, còn quan hệ sản xuất hàng hoá tiền tệ thì nền kinh tế còn sử dụng tiền tệ để tính toán hao phí lao động xã hội trong sản xuất và lưu thông. Bất cứ một đơn vị sản xuất nào để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình cũng phải tiến hành hạch toán kinh tế để quá trình hoạt động sản xuất đạt được hiệu quả.

Khi tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn bổ xung cho quá trình sản xuất của các hộ được tiến hành liên tục thì cũng là lúc ngân hàng buộc các hộ phải hoàn trả nợ vay (cả gốc lẫn lãi) đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng.

Như vậy, bằng động tác gián tiếp ngân hàng đã kích thích các hộ sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phải hạch toán kinh doanh để tính toán có hiệu quả, giảm chi phí sản xuất để sau khi trả nợ cho ngân hàng các hộ sản xuất vẫn còn lãi ròng là thành quả gặt hái được sau quá trình lao động sản xuất.

  • Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận thị trường mở rộng sản xuất hàng hoá.

Như đã trình bày, các hộ sản xuất đã quen với tính chất tự cung tự cấp, mọi sản phẩm làm ra để cho tiêu dùng của chính mình. Khi tín dụng ngân hàng đầu tư cho sản xuất phải tiến đến bước phát triển lơn hơn trong sản xuất nông nghiệp, phải làm quen với hình thức sản xuất hàng hoá. Sản phẩm làm ra không chỉ cung cấp cho tiêu dùng của người làm mà nó còn là hàng hoá bán trên thị trường. Chỉ khi bán hàng hoá ra hộ sản xuất mới có khả năng trả lãi và nợ gốc cho ngân hàng. Chính quá trình bán hàng hoá trên thị trường, với nền sản xuất hàng hoá và do tác động của cơ chế thị trường đã giúp hộ sản xuất hình thành những biện pháp tốt nhất để tiếp cận và thích nghi với thị trường, như nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi các loại cây trồng con giống theo thời vụ cho thích hợp, cải tiến các biện pháp kỹ thuật về giống, tiết kiệm vật tư để sản phẩm làm ra đáp ứng được với nhu cầu của thị trường, thu được lợi nhuận cao.

Thêm vào đó khi được tiếp nhận vốn đầu tư của ngân hàng một cách kịp thời cùng với chính sách ưu đãi riêng, hộ sản xuất có khả năng ngày càng mở rộng quy mô sản xuất chính vì vậy mà tính chất sản xuất hàng hoá ngày càng ăn sâu trong tập tính lao động của người nông dân.

Quan điểm về chất lượng tín dụng ngân hàng

Chất lượng tín dụng là việc đáp ứng yêu cầu của khách hàng ( người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.

+ Đối với khách hàng: tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thu hút được nhiều khách hàng, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc tín dụng. Đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

+ Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: tín dụng phụ vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.

+ Đối với ngân hàng thương mại: Phạm vi mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và có lãi của tín dụng, hạn chế thấp nhất mức rủi ro trong quá trình hoạt động và cạnh tranh trên thương trường, mang lại lợi nhuận và đảm bảo thanh toán cho ngân hàng có thể nói:

Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của ngân hàng thương mại trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.

Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: Như thu hút được nhiều khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn vốn tín dụng, chi phí tổng thể về lãi suất, chi phí về nghiệp vụ....

Chất lượng tín dụng không tự nhiên sinh ra, đây là một quá trình kết hợp hoạt động giữa những con người trong tổ chức, giữa những tổ chức với nhau trong một ngân hàng, vì điều đó không chỉ đảm bảo cho chất lượng tín dụng mà còn nhằm cải tiến tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ cơ sở kinh doanh, nhằm thoả mãn ngày càng đầy đủ những yêu cầu của khách hàng.

Như vậy, chất lượng tín dụng vừa là một khái niệm vừa là cụ thể, vừa trìu tượng và là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp. Để có chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín của ngân hàng trong hoạt động, hay nói cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng. Hiểu đúng bản chất và phân tích đánh giá đúng chất lượng tín dụng, cũng như xác định chính xác những nguyên nhân những tồn tại của tín dụng, sẽ giúp ngân hàng tìm được biện pháp thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt.

Do nhận thức được vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong phát triển kinh tế thị trường, nhiều nước trên thế giới và nhất là các nước trong khu vực đông nam á đã rất coi trọng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp, nông thôn, coi đây là động lực phát triển kinh tế hàng hoá. ở đây chuyên đề chỉ nêu kinh nghiệm của một số nước trong khu vực đông nam á có điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh phát triển kinh tế giống nước ta trong lĩnh vực tín dụng hộ sản xuất.

Ngân hàng nông nghiệp MALAYSIA (BPM).

Là một ngân hàng thương mại quốc doanh, được nhà nước cấp vốn tự có 100% và cho vay ưu đãi để tạo nguồn vốn hoạt động.

BPM là công cụ của nhà nước, để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng nông thôn trong sản xuất nông nghiệp.

Tổng nguồn vốn của BPM năm 2002 là: 2.028 triệu đồng Ringit tương đưng với 66,32 triệu USD, trong đó 52,5 triệu ringit do chính phủ cung cấp (2%), 467,6 triệu ringit vay chính phủ (20%).

Để khuyến khích và góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn, 38 ngân hàng thương mại phải gửi bắt buộc 20,5% số dư tiền gửi vào ngân hàng nhà nước, trong đó 3% dự trữ bắt buộc và phải nộp thuế doanh thu, song BPM không phải nộp thuế.

BPM chú trọng cho vay trung dài hạn theo dự án và chương trình tín dụng đặc biệt, đối tượng vay vốn của BPM gồm chủ yếu:

+ Cho vay trực tiếp nông dân và qua các hợp tác xã tín dụng.

+ Cho vay nông dân nghèo, không phải trả lãi.

+ Cho vay doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp.

+ Lãi suất cho vay nông nghiệp thấp hơn đối với các loại vay khác.

Ngân hàng RAKYAT ở INĐONÊXIA (BRI).

Tại INĐÔNÊXIA, ngân hàng RAKYAT (BRI) là cơ quan tín dụng nông nghiệp chủ yếu và các ngân hàng khác đều cho nông dân vay với lãi suất ưu đãi cho công nghiệp và dịch vụ nông thôn nói chung. Lý thuyết hệ thống xác định kinh tế nông thôn bao gồm một hệ thống các ngành nghề sản xuất và dịch vụ trên địa bàn. Do vậy, đầu tư cho ngành sản xuất nông nghiệp cũng phải gắn đầu tư toàn hệ thống kinh tế nông thôn. Phát triển một nền kinh tế nông thôn toàn diện với cơ cấu hợp lý, trong đó nông nghiệp là trung tâm.

Vấn đề đầu tư cho hộ nông dân ở nông thôn hiện nay được các tổ chức quốc tế và chính phủ rất quan tâm. Cho vay ưu đãi về lãi suất và thủ tục cho vay thuận tiện, vừa linh hoạt nên thu hút được nhiều đối tượng vay vốn như tín dụng đầu tư nhỏ và các hợp tác xã tín dụng nông thôn.

Như vậy hầu hết các nước đề có hệ thống ngân hàng phục vụ nông nghiệp và điều hành một khoản vốn, để trợ cấp cho vay ưu đãi ngân hàng nông nghiệp để ngân hàng này đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.

Lãi suất cho vay nông nghiệp đều thấp hơn lãi suất của các đối tượng khác.

Các ngân hàng nông nghiệp đều không phải nộp thuế hoặc giảm các khoản nộp thuế, không phải dự trữ bắt buộc tại ngân hàng trung ương trong khi các ngân hàng khác ký quỹ gửi bắt buộc.

Ngân hàng nông nghiệp ngoài việc đầu tư trực tiếp cho nông dân, còn đầu tư gián tiếp qua các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính nông thôn và cho vay doanh nghiệp khác trong nông nghiệp.

0