07/02/2018, 23:00

Tuần 25 – Đặc điểm loại hình của tiếng Việt

Tuần 25 – Đặc điểm loại hình của tiếng Việt Hướng dẫn I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG 1. Loại hình là một tập hợp những sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào đó, ví dụ như: loại hình nghệ thuật, loại hình báo chí, loại hình ngôn ngữ,… (Đại ...

Tuần 25 – Đặc điểm loại hình của tiếng Việt

Hướng dẫn

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Loại hình là một tập hợp những sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào đó, ví dụ như: loại hình nghệ thuật, loại hình báo chí, loại hình ngôn ngữ,… (Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 1999).

2. Trên thế giới có tới trên 5000 ngôn ngữ. Sự khác nhau giữa những ngôn ngữ này rất dễ nhận biết qua trực quan. Tuy nhiên khi đi sâu nghiên cứu, các nhà ngôn ngữ học thấy giữa một số ngôn ngữ có những nét chung do cùng nguồn gốc, và họ dựa vào đó để phân chia chúng thành một số ngữ hệ, như: ngữ hệ Ấn – Âu, ngữ hệ Nam Á. Nhưng cũng qua đối chiếu so sánh, các nhà ngôn ngữ học còn thấy một số ngôn ngữ tuy không cùng cội nguồn nhưng vẫn có những đặc trưng cơ bản (trên các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) giống nhau. Dựa trên những sự giống nhau đó, các nhà ngôn ngữ học tiến hành phân loại và sắp xếp các ngôn ngữ vào một số loại hình. Có hai loại hình ngôn ngữ khá quen thuộc với chúng ta là: loại hình ngôn ngữ đơn lập (tiếng Việt, tiếng Hán,…) và loại hình ngôn ngữ hoà kết (tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh,…). "Những đặc điểm được tập hợp vào trong một loại hình phải là những đặc điểm liên quan với nhau, chi phối lẫn nhau,… Loại hình là một khái niệm rất chung cho phép chỉ ra những đặc điểm cơ bản nhất (nhưng không phải đầy đủ nhất) trong cơ cấu một ngôn ngữ. Nói loại hình của một ngôn ngữ nào đấy tức là nói đến tổng hợp những đặc điểm chính của ngôn ngữ đó. Tất cả những ngôn ngữLoại hình các ngôn ngữ).

3. Theo cách phân loại trên đây thì tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập. Đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ đơn lập là:

– Tiếng là đơn vị cơ sở của ngôn ngữ. Tiếng trong tiếng Việt trùng với âm tiết và có thể là từ (hoặc là yếu tố để tạo từ). Âm tiết có kết cấu chặt chẽ, có ranh giới rõ ràng, ở dạng đầy đủ gồm có: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. Trong thơ cổ Hán Nôm, tiếng thường được gọi là chữ: thơ năm chữ, thơ bảy chữ,… Đó là cách gọi dựa trên chữ viết, vì chữ Hán và chữ Nôm đều là chữ viết ghi âm tiết, mỗi chữ ghi trọn vẹn một tiếng.

– Từ không biến đổi hình thức. Xét về mặt kết cấu ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, hoàn toàn không có sự khác biệt nào trong phạm vi một từ tiếng Việt ở những hoàn cảnh khác nhau: ví dụ trong tiếng Việt chỉ có một từ tôi dùng để chỉ chủ thể và có khi làm bổ ngữ cho động từ,… song cùng là từ "tôi" nhưng trong tiếng Anh, khi là chủ ngữ thì dạng thức của nó là I, còn khi là bổ ngữ thì dạng thức của nó là me,… nghĩa là có sự biến đổi về hình thức ngôn ngữ. Cũng do không biến đổi hình thức, từ trong tiếng Việt có khả năng chuyển loại (động từ có thể được dùng như danh từ, danh từ có thể được dùng như động từ,…).

– Trong các ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, biện pháp chủ yếu để biểụ thị ý nghĩa ngữ pháp là sắp đặt từ theo thứ tự trước sau và sử dụng các hư từ, nghĩa là khi ta thay đổi trật tự sắp xếp của từ (và thay đổi các hư từ được dùng) thì nghĩa của từ, của câu sẽ đổi khác (hoặc trở thành vô nghĩa).

II – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Phân tích những ngữ liệu dưới đây về mặt từ ngữ (chú ý các từ in đậm).

a) Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

Em đã có chồng anh tiếc em thay.

(Ca dao)

Gợi ý:

Đoạn trích có hai cụm từ nụ tầm xuân đứng ở hai vị trí khác nhau. Tuy hình thức ngôn ngữ không thay đổi nhưng vai trò ngữ pháp của chúng trong câu có sự khác nhau. Cụm từ nụ tầm xuân thứ nhất giữ vai trò là bổ ngữ của câu (bổ sung ý nghĩa cho động từ hái). Trong khi đó, ở câu thứ ba, cụm từ nụ tầm xuân đóng vai trò là chủ ngữ của câu (chủ thể của quá trình nở).

b) Thuyền ơi có nhớ bến chăng,

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

(Ca dao)

Gợi ý:

Cũng như đoạn trích ở phần 1, hai từ bến được sử dụng trong hai câu ca dao nêu trên cũng có những ý nghĩa ngữ pháp khác nhau. Từ bến ở câu lục là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ nhớ. Từ bến thứ hai (trong câu bát) là chủ ngữ (chủ thể của trạng thái khăng khăng đợi thuyền), cả hai từ bến này đều có nghĩa bóng chỉ người phụ nữ.

c) Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.

(Tục ngữ)

Gợi ý:

Trong câu tục ngữ trên, dù hình thức ngôn ngữ giống nhau nhưng vai trò ngữ pháp của mỗi từ trẻ, già là khác nhau. Từ trẻ và từ già thứ nhất đều giữ vai trò là bổ ngữ cho các động từ (yêukính). Trong khi đó hai từ trẻgià còn lại đã được chuyển loại (danh từ hoá) để giữ vai trò là chủ ngữ trong câu.

d) Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thỉ con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống

Nói xong, Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày một lớn lên trông thấy.

(Tấm Cám)

Gợi ý:

Vai trò ngữ pháp của mỗi từ bống trong đoạn văn trên là:

bống: là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ đem.

– bống: là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả (xuống).

– bống: là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả.

– bống: bổ ngữ cho động từ đưa (ra).

– bống: chủ ngữ của câu (chủ thể của hành động ngoi lên)

– bống: là chủ ngữ của câu (chủ thể của quá trình ngày một lớn lên trông thấy).

2. So sánh một câu tiếng Anh với một câu dịch để thấy đặc điểm riêng về loại hình giữa hai loại ngôn ngữ này.

a) Câu ví dụ:

– Tiếng Anh: I saw her, three days ago.

– Dịch: Tôi thấy cô ta cách đây ba hôm.

b) Phân tích so sánh:

– Đặc điểm loại hình ngôn ngữ hoà kết của tiếng Anh trong câu ví dụ trên thể hiện ở:

+ Ranh giới các âm tiết không rõ ràng: các từ three, ago dù có dạng hai âm tiết nhưng chúng được phát âm nối liền nhau.

+ Từ có sự biến đổi về hình thức: từ saw (thấy, nhìn thấy) có hình thức tồn tại ở thì quá khứ. Thì hiện tại của từ này được viết là see. Cũng tương tự như vậy là trường hợp từ her (cô ấy). Trong câu này từ "cô ấy" không phải là chủ ngữ (she) mà nó đóng vai trò là tân ngữ, thế nên dạng thức tồn tại của nó là đại từ nhân xưng (her).

+ Trật tự từ không được sắp xếp theo thứ tự trước sau. Trạng ngữ của câu đặt ở cuối câu. Đồng thời ngay trong trạng ngữ thì trật tự thuận cũng bị đảo lộn: từ cách đây (ago) lại đặt sau phần chỉ thời gian (three days).

– Ngược lại với những đặc điểm nêu trên của tiếng Anh là những đặc điểm riêng của loại hình ngôn ngữ đơn lập trong câu dịch tiếng Việt:

+ Ranh giới các âm tiết rõ ràng (mỗi âm tiết được phát âm riêng biệt, tách rời): Tôi / thấy / cô / ta / cách / đây / ba / hôm.

+ Từ không có sự biến đổi về hình thức: bổ ngữ cô ta, động từ thấy.

+ Trật tự từ được sắp xếp theo đúng thứ tự trước sau.

3. Trong đoạn văn: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị… Cộng hoà" (Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập, SGK Ngữ văn 11, tập hai, tr. 58) có hai hư từ đáng chú ý nhất là: đãlại. Việc sử dụng hai hư từ này kết hợp với biện pháp tu từ điệp cấu trúc cú pháp và lối diễn đạt tầng bậc đã giúp Hồ Chí Minh khẳng định một chân lí chắc chắn, đó là: dân ta hoàn toàn chủ đông đứng lên đánh đuổi thực dân, lật đổ giai cấp phong kiến lỗi thời, lập nên nhà nước dân chủ. Công lao đó thuộc về nhân dân ta chứ không phải là sự ban phát hay giúp đỡ của bên ngoài.

Mai Thu

0