Viết bài làm văn số 2: Nghị luận văn học (bài làm ở nhà)
Hướng dẫn Tú Xương qua bài thơ “Thương vợ”. GỢI Ý Đề này yêu cầu phân tích tâm trạng chủ thể trữ tình, nói rõ hơn là tâm trạng Tú Xương qua bài thơ Thương vợ ‘của ông. Vì vậy, cần phân tích: – Tình cảm của tác giả với vợ. – Tâm trạng xót xa dằn ...
Hướng dẫn
Tú Xương qua bài thơ “Thương vợ”.
GỢI Ý
Đề này yêu cầu phân tích tâm trạng chủ thể trữ tình, nói rõ hơn là tâm trạng Tú Xương qua bài thơ Thương vợ ‘của ông. Vì vậy, cần phân tích:
– Tình cảm của tác giả với vợ.
– Tâm trạng xót xa dằn vặt bi phẫn của tác giả để thấy được nghệ thuật biểu hiện tâm trạng trữ tình và nhất là vị trí và ý nghĩa nhân bản của bài thơ này.
BÀI LÀM
Trần Tế Xương, bậc “thần thơ thánh chữ”, một tú tài nổi tiếng tài hoa ở đất thành Nam đã in đậm trong tâm trí những người yêu thơ. Ai đã một lần đọc bài thơ Thương vợ của ông chắc hẳn không quên một Tú Xương có những tình cảm sâu sắc đối với người vợ yêu dấu của mình, ta cũng gặp ở đây một Tú Xương với những suy nghĩ về chính mình. Độc giả sẽ được thưởng thức ở đây cả cái tài thơ trữ tình của một vị tú tài.
Vào đầu bài thơ bằng bút pháp trữ tình, Tú Xương đã phác họa trước mắt độc giả một hình ảnh bà Tú đảm đang vất vả nuôi chồng nuôi con:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Tú Xương đặt từ “quanh năm" ở đầu câu thơ, đầu bài thơ không những có hàm ý chỉ thời gian kéo dài mà còn gợi hình ảnh bà Tú đầu tắt mặt tối nơi đầu sông, cuối bãi để buôn bán nuôi chồng nuôi con. Điều đáng chú ý ở đây Tú Xương viết bà Tú buôn bán ở “mom” sông chứ không phải ven sông. Ven sông có lẽ rộng rãi hơn mom sông. Tú Xương cảm thông với nồi vất vả của vợ vì bà Tú buôn bán nhỏ chứ không to tát gì. Lời thơ chân thành không hoa mĩ gì mà hàm chứa biết bao tình yêu thương của ông Tú đối với bà Tú. Ông Tú Xương làm thơ, lời thơ là lời dùa đùa vui vui âu yếm vợ cho khuây khỏa nỗi vất vỗ quanh năm. Tú Xương cảm nhận sâu sắc cái ơn của vợ đối với con và đặc biệt đối với mình. Thái độ của Tú Xương đốì với vợ lúc này là “vuốt râu nịnh vợ con bu nó” thật cởi mở, rạch ròi, chu đáo, không mập mờ. “Nuôi đủ năm con với một chồng”, ở ngay đầu Tú Xương đã nhận mình là một thứ “con đặc biệt” của vợ mà không chút ngượng ngùng, sĩ diện. Lời thơ giản dị mà Tất hay, ông không gộp cả năm con với một chồng thành sáu người mà để “một chồng” tương ứng với vế “năm con”, điều đó thể hiện niềm kính trọng của bà đốì với ông, bởi sinh hoạt của ông nếu không tôn kém hơn thì cũng phải tốn kém bằng năm đứa con. Nó đã trở thành “cấp số nhân” chứ không phải là “cấp số cộng” nữa. Càng thấy vợ vất vả bao nhiêu đối với mình và con thì Tú Xương càng cảm thấy mình là đồ vô tích sự bấy nhiêu; càng cảm thông với nỗi vất vả của vợ mình càng trân trọng tấm lòng của vợ đối với mình bấy nhiêu. Tú Xương không chỉ thương cảm vợ mình vì nỗi vất vả mà ông còn hiểu và cảm thông cả nỗi giày vò về tinh thần:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Hình ảnh con cò trong ca dao và hình ảnh bà Tú của chúng ta thoạt nhìn giống nhau như hai chị em. Này nhé cùng cảnh sông nước, cũng lặn lội nuôi chồng nuôi con. Thế nhưng con cò trong ca dao chỉ vất vả nuôi con trong khi chồng vắng nhà (đi lính) còn bà Tú thì không những phải nuôi con mà còn nuôi cả ông Tú. Cảnh buôn bán của bà Tú còn khổ hơn trong hình ảnh:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Tú Xương nói “đò đông’” hay “đò đầy” cũng vậy. Rõ ràng đây là một chuyến đò chở quá tải vừa chòng chành vừa hỗn độn rất đáng ngại, ấy vậy mà bà Tú vẫn phải qua. Hình ảnh bà Tú được Tú Xương tả như một vị nội tướng đầy dũng cảm dám chấp nhận mọi khó khăn với một lòng vị tha rất cao. Phải hiếu và cảm thông sâu sắc đối với nỗi khố của vợ, Tú Xương mới dựng nên được hình ánh một bà Tú như vậy. về vật chất đã thiếu thốn, về tinh thần thì bà Tú cũng không được thoải mái chút nào. Tú Xương chỉ đỗ tú tài mà tú tài thời đó thì dở dang dang dở, không làm được ruộng như dân mà cũng chưa được bổ dụng quan chức nên ông chỉ ở nhà để vợ nuôi ăn học. Vợ ông được mỗi cái danh gọi là bà Tú. Bà Tú vốn là con cái nhà dòng dõi:
Con gái nhà dòng lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ.
“… Đầu sông bãi bến đua tài buôn chín bán mười. Trong họ ngoài làng vụng lẽ chào dơi nói thợ” Vậy mà bà phải vất vả lặn lội bán buôn nơi đầu sông cuổì bãi để nuôi chồng, nuôi con. Trong khi buôn bán không tránh khỏi sự “eo sèo” cãi lộn và khi đó nỗi khổ nỗi tủi cua bà Tú như nhân lên đến nghẹn ngào trong cổ. Hơn nữa việc ông Tú thi không đỗ cũng tác động mạnh mẽ đến tinh thần của bà. Tú Xương vì thế càng cảm thông và yêu thương bà bội phần, và cũng thấy tủi hố cho mình nữa. Tú Xương thương vợ, cảm thông với nỗi vất vả chịu đựng của vợ cả về vật chất và tinh thần. Càng thương vợ bao nhiêu, ông càng quý trọng bà bấy nhiêu. Ông càng yêu quý vợ hơn khi bà là người tháo vát, đảm đang. Bà không những phải lo cho gia đình đủ ăn mà còn phải lo toan bao công việc khác nữa. Tú Xương quý trọng bà cũng bởi tính hi sinh hết mình cho chồng con của bà Tú:
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Tú Xương đã sáng tạo chữ “duyên nợ” thành “một duyên hai nợ” vừa miêu tả được tình thương yêu của ông đối với bà, vừa dự cảm những khó khăn thử thách mà vợ chồng thi sĩ thành Nam phải vượt qua. Duyên nợ chỉ “một hai” mà đủ sức giúp nhau vượt qua “năm mười” mưa nắng. Mưa nắng của đất trời và mưa nắng của cuộc sống. Chi mà duyên – một cuộc đời đeo hai gánh nợ, âu cũng là số phận bà đành chịu một đời năm nắng mười mưa. Ấy là Tú Xương nghĩ vậy chứ bà thì không hề có ý ấy. ông thấy được ở bà một người vợ vô cùng nhân hậu, giàu đức tính hi sinh. Còn chúng ta, độc giả hình dung thấy một ông Tú đang buồn vì chưa làm tròn trách nhiệm của một người cha, người chồng đổì với đàn con và vợ. Nhưng Tú Xương cũng là một con người có nhân cách cao đẹp bởi ông cũng đã tự suy nghĩ, tự dằn vặt mình. Ông văng ra một câu chửi: chửi anh chồng vô tích sự là mình, chửi luôn cả cái thói đời bạc bẽo đã đẻ ra cái loại chồng đoảng như mình. Một tiếng chửi mà để lộ nhân cách, nhân phẩm cao đẹp:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững củng như không.
Tú Xương tự thấy mình chẳng giúp ích được cho gia đình mà tất cả chỉ trông vào đôi bàn tay của bà Tú. Không còn cách gì tạ lại ơn của vợ, Tú Xương chỉ bốì rối dằn vặt và cảm thây mình vô tích sự quá. Cũng có lúc ông đã nghĩ:
Chi bằng đi học làm thầy phán
Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò.
Hay:
Quẳng bút lông đi, nắm bút chì.
Đi làm thầy phán, hay “nắm bút chì" là đi làm cho Tây viết chữ Tây thì Tú Xương sung sướng, vợ con óng Tú sung sướng, bà Tú không phải buôn ngược bán xuôi nhưng lương tâm, lương tri của ông không cho phép đề rồi ông vần phải ngồi nhìn vợ tảo tần buôn bán nuôi mình nuôi con. Tú Xương xót xa khi thây mình trở thành gánh nặng cho vợ, cho gia đình. Dù sao đây cũng là phẩm chất cao đẹp của Tú Xương vì sống trên đất nước như nước ta xưa cái thuyết “tam tòng” cái thuyết “phu xướng phụ tùy” của Nho giáo từng dẫn các ông chồng, nhất là trong hàng ngũ nho sĩ, tới lối sống ăn bám vợ. Đã không biết ngượng, không ít ông lại còn quay ra bắt nạt vợ. Tú Xương cũng khó mà thành anh chồng lí tưởng, vì cũng ăn bám như ai, nhưng kể ra thì Tú Xương là người còn biết hối, biết đem tâm lòng của mình ra mà đãi vợ.
Hai câu thơ là tiếng khóc, tiếng nấc của Tú Xương vì cảm thương vợ và cũng là giận và thương chính mình. Tú Xương khóc cũng đúng thôi bởi làm trai phải có chí “tề gia trị quốc, bình thiên hạ” nhưng ông tề gia không nổi, nói gì đến trị quốc, càng không nói tới việc bình thiên hạ.
Người xưa quan niệm “Văn dĩ tải đạo” nghĩa là văn thơ phải nhằm chuyển tải những đạo lí cao siêu mà hiện thân là những người anh hùng liệt nữ. Ấy vậy mà giữa thời đại đó Tú Xương lại viết thơ với tất cả cái xù xì của cuộc sống. Tú Xương viết cả về người vợ đảm đang nhân hậu của mình mà viết về người vợ đang sống với những lời thơ chân thành xúc động. Văn thơ nói về tình yêu trai gái thì nhiều nhưng nói về tình cảm vợ chồng thì quá ít, họa là sau này có Tú Mỡ viết về vợ khi bà đã qua đời. Vì vậy bài. thơ Thương vợ cũa Tú Xương xứng đáng là một bông hoa rực rỡ nở trên ngọn cây văn thơ viết về tình “chồng vợ”. Ta càng ghi nhận ở đây công lao Việt hóa thơ Đường của Tú Xương. Bài Thương vợ làm theo thế Đường luật đấy cũng đề, thực, luận, kết, thất ngôn bát cú. Nhưng không một chút khệnh khạng, chỉnh tề, “mũ cao, áo dài", đạo mạo mà gần gũi thân thương như lời nói hằng ngày. Tú Xương đã dùng thể thơ Đường luật Trung Quốc, thể thơ “dài các quan phương”’, trang trọng để viết về người vợ của mình nhưng khi đọc lên ta thấy nó bay nhẹ như thơ Việt bởi tình cảm của ông đối với vợ chân thành xúc động, ông lại có tài trong việc điều khiển đội quân ngôn từ và cách sử dụng hình ảnh thơ dân gian.
Ớ đây Tú Xương đã tỏ lòng biết ơn bà Tú đã giúp ông, ông Tú Vị Xuyên, trên bước đường danh vọng, đế cho nước Nam ta có một bậc đại thi hào. Tên bài thơ là "Thương vợ", chồng thương vợ thì lời thơ không thề cao giọng, sáo rỗng rồi. Nhưng cũng không được phép quá xuề xòa, thô thiến vì tình yêu thương, lòng kính trọng biết ơn và vì Tú Xương là một trí thức, một nhà thơ. Ông đã chọn đúng giọng điệu để tìm về cội nguồn dân tộc, khơi mạch và lắng đọng thêm. Hình ảnh, lời lẽ dân gian được ông nâng lên tầm thi hào.
Tú Xương đã ra đi cách chúng ta hơn tám thập kỉ, ấy vậy mà nhà thơ thành Nam với bài Thương vợ vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc yêu thơ.
Nguyễn Thị Hiền (Lớp 11A, trường PTTH Xuân Trường, Nam Hà)
Mai Thu