Truyền thuyết về Từ Thức

Thời nhà Trần, ở Tiên Du - Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay) có viên quan huyện trẻ tuổi hào hoa phong nhã, tên gọi Từ Thức, quê ở Hoá Châu (nay là vùng ven biển Nga Sơn - Thanh Hoá). Cha là quan Đại thần đã nghỉ hưu, nên theo điển lệ chàng được tập ấm, bổ dụng chức Tri huyện. Trái với số đông các ...

Thời nhà Trần, ở Tiên Du - Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay) có viên quan huyện trẻ tuổi hào hoa phong nhã, tên gọi Từ Thức, quê ở Hoá Châu (nay là vùng ven biển Nga Sơn - Thanh Hoá). Cha là quan Đại thần đã nghỉ hưu, nên theo điển lệ chàng được tập ấm, bổ dụng chức Tri huyện.

Trái với số đông các đồng sự, thời ấy cũng như về sau, chỉ nhăm nhăm vào hai việc là bóp nặn dân đen và nịnh nọt quan trên, ngõ hầu mau thăng quan tiến chức để có thêm cơ hội vơ vét và hưởng bổng lộc, thì Từ Thức lại là người không bao giờ màng đến danh lợi, có lòng thương người và xét xử các việc công minh. Những vụ kẻ giàu ức hiếp người nghèo hoặc những anh chồng vũ phu đối xử tàn nhẫn với vợ, đều bị chàng nghiêm trị. Ở công đường, ngoài những vụ xử kiện, còn mọi giấy tờ sổ sách khác thảy đều làm cho chàng chán ngán, chỉ làm một cách chiếu lệ, qua loa, có khi công văn chậm trễ đến cả tháng trời. Quan trên đã có lần nhắc nhở, nhưng xem ra chàng cũng chẳng thay đổi gì nhiều.

Thật vậy, chí hướng của Từ Thức đã không đặt vào con đường danh lợi. Làm quan đối với chàng chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ, do triều đình bổ dụng, và cũng do phụ thân nhắc nhở một phần. Là trang phong lưu công tử, chữ nghĩa đầy bồ, chàng chẳng muốn cầu cạnh một ai, lại cũng chẳng muốn ép mình vào vòng khuôn phép. Là người giàu lòng trắc ẩn, chàng không nỡ ngồi hưởng phú quí vinh hoa trong khi trăm họ đang rên xiết dưới ách sưu cao thuế nặng và điêu đứng nhiều bề về nỗi lắm bận tai ương.

Ở giữa đám quan trường và thuộc hạ đông đúc, chàng chẳng tìm được bạn tâm giao, cho nên những khi rỗi rãi, thường chỉ một mình uống rượu ngâm thơ, hoặc cao hứng lên thì mượn cây đàn để giải khuây nỗi niềm tâm sự. Cũng có khi, vào khoảng giêng hai tháng rộng ngày dài, là mùa hội hè của dân chúng, chàng hay cải trang làm một nho sĩ, đi lẫn vào trong đám chúng sinh, đến thăm viếng vãn cảnh chùa, hoặc dạo chơi ở những nơi danh lam thắng cảnh.

*

*        *

Thuở ấy, ở hạt Tiên Du có chùa Phật Tích là ngôi chùa cổ nổi tiếng linh thiêng. Trước sân chùa có trồng một cây mẫu đơn rất lớn, quanh năm cành lá xanh tốt xum xuê. Cây mẫu đơn lại trổ hoa đúng vào dịp hội làng, cho nên khắp nơi dân chúng kéo về trảy hội đông như mắc cửi. Người người náo nức, ai ai cũng muốn được tận mắt nhìn ngắm cây hoa. Quả là danh bất hư truyền, vô vàn những cụm hoa màu đỏ tươi, nảy đều trên nền lá màu xanh thẫm, đầy đặn, tựa như một mâm xôi gấc cực kỳ lớn mà trời phật đã gia ân, ban phước ban lộc xuống cho mọi người. Nhưng vẫn chưa hết, cùng với vẻ đẹp diệu kỳ, còn là một mùi hương thơm ngát, lan toả ra trong không khí khắp bốn xung quanh, quấn quýt theo mỗi bước chân của du khách bộ hành đến dự hội.

Cây hoa đã gắn bó với ngôi chùa, tôn lên vẻ đẹp và làm cho phong cảnh nhiễm thêm màu huyền bí. Người ta đồn rằng, có cả Phật tổ và chư tiên thỉnh thoảng cũng giáng lâm, xuống thưởng ngoạn nơi đây. Người ta cũng đồn rằng, nếu ai được nhìn thấy cây hoa một lần vào độ đang nở thì trong năm sẽ làm ăn thịnh vượng, tránh khỏi mọi lo phiền, đau ốm, và con trai sẽ mau lấy vợ, con gái sẽ chóng đắt chồng...

Thật là nhiều những lời đồn đại! Và bỗng nhiên cây hoa đã trở thành một vật linh thiêng vào bậc nhất. Con trai con gái tấp nập tìm về, và trong số họ, không thiếu những kẻ nhố nhăng nhiễu sự, những kẻ chuyên "đục nước béo cò". Họ cố tình gây ra những cảnh chen lấn xô đẩy và gào thét ầm ĩ, để nhân đó mà làm các trò bậy bạ hoặc móc túi, làm cho chốn linh thiêng bỗng chốc bị ô nhiễm bởi thói bỉ lậu và mùi vị kim tiền.

Để "dẫn lối chúng sinh", hay như bây giờ, là để "giữ gìn trật tự công cộng", nhà chùa đã cử hẳn ra hai vị sư nam, thực lực lưỡng khoẻ mạnh, làm nhiệm vụ coi sóc cây hoa và chỉ dẫn người xem, nhưng nhiều khi, cảnh chen lấn xô đẩy vẫn cứ xảy ra. Thấy vậy, nhà chùa bèn đặt ra một lệ là hễ ai làm gãy một cành hoa, sẽ bị xử phạt một khoản tiền rất lớn. Lệ đặt ra thì đúng, nhưng khi xử lý cũng thật cứng nhắc, như sau này sẽ rõ.

*

*          *

Lần ấy, vào khoảng tháng hai năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái thứ ba (1390), trong mùa hội làng, bỗng có một cô gái xinh đẹp tuyệt vời, không biết từ đâu tới trẩy hội. Cô gái vào chùa dâng lễ vật và thắp hương khấn vái, rồi đi ra ngắm hoa như mọi người. Cũng như thường vẫn diễn ra, khi phát hiện thấy cô gái, đám thanh niên anh chị liền xô tới bám xung quanh và buông ra những lời  chọc ghẹo. Cô gái đỏ bừng mặt, vội len vào chỗ đông người. Lập tức, một cảnh chen lấn xô đẩy náo loạn diễn ra. Trẻ con, ông già, bà già bị ngã dúi dụi, tiếng kêu khóc rên la inh ỏi. Cô gái bị đẩy đến sát cây hoa, và để giữ thăng bằng trước làn sóng người xô tới, đã bíu vào một cành hoa, nhưng tiếc thay, do sức xô đẩy quá mạnh, cành hoa mà cô gái bám vào đã bị gãy.

Chỉ vừa mới nghe tiếng "rắc" và thấy cành hoa lả xuống là đám thanh niên bám quanh cô đã nhanh chóng đánh bài chuồn và lủi nhanh như chuột. Những người khác cũng dãn cả ra. Thế là chỉ còn lại một mình cô và cành hoa bị gãy. Cô gái luống cuống chưa hiểu sự tình thế nào thì lập tức hai vị sư nam xuất hiện. Cô gái bị điệu ngay về gian nhà nhỏ mé sau chùa, ở đó cô sẽ phải bỏ tiền ra nộp phạt.

Nhưng khi hỏi đến tiền thì cô gái sờ vào túi và lắc đầu. Hỏi đến quê quán thì cô trả lời là ở rất xa. Thế là người ta giữ cô lại, để chờ người nhà tìm  đến chuộc về. Thấy cảnh tượng như thế, dân chúng thập phương tỏ lời ta thán, luận bàn. Họ cám cảnh cho cô gái, sao xinh đẹp là thế mà bỗng đâu phải chịu lấy tai ương. Họ cũng phàn nàn về nhà chùa, luật lệ đặt ra sao mà cứng nhắc, không tìm kẻ chủ mưu gây ra chen lấn xô đẩy, mà lại đi bắt người chẳng có tội tình gì. Tuy thế, dẫu có nghe đủ những lời chê trách thế nào, thì những vị sư coi chùa cũng vẫn làm ngơ, và cô gái cũng chẳng được thả ra, bởi vì luật lệ dầu sao cũng vẫn là luật lệ!

Chừng một tiếng đồng hồ sau khi cô gái bị giam giữ, thì quan huyện Tiên Du xuất hiện, nhưng trong trang phục một nho sinh và không có lính đi kèm, nên cũng chẳng mấy ai để ý tới. Từ khi trị nhậm huyện đường, năm nào cũng vậy, cứ đến ngày này, Từ Thức lại ra chùa Phật Tích, trước thì cúng Phật còn sau là ngắm hoa để thử cầu may một lần trong năm xem sao.

Nhưng khi từ Phật điện bước ra sân ngắm hoa thì Từ Thức nghe thấy những lời dân chúng bàn tán. Chàng lắng nghe rồi lẳng lặng đi về phía nhà sau chùa, ở đó có cô gái đang bị giam giữ.

Cô gái lúc đó cúi mặt xuống và dáng điệu ủ rũ tựa như tàu lá héo. Tuy vậy, khi cô ngẩng mặt lên thì Từ Thức lập tức nhận ra đó là một vẻ đẹp thiên thần.

Trong nỗi buồn, vẻ đẹp ấy mang thêm một sắc điệu thánh thiện, khiến cho Từ Thức cảm thấy choáng váng như bị hớp hồn. Chưa bao giờ chàng thấy một người con gái nào lại đẹp đến như thế. Một thoáng thẫn thờ hiện ra trên nét mặt, nhưng rồi chàng cũng trấn tĩnh lại được, và hỏi han hai bên đương sự xem sự thể ra sao. Sau khi nghe rõ câu chuyện, chàng sờ vào trong túi tìm tiền, nhưng khi rút ra đếm thì chỉ thấy có vài đồng bạc lẻ - số tiền quá ít so với lệ phải nộp.

Ngay lập tức, chàng cởi chiếc áo khoác đang mặc trên người. Đó là chiếc áo gấm màu trắng sang trọng mà chàng mới may dạo cuối năm ngoái, trị giá đến một lượng vàng, hôm nay do trời lạnh nên chàng mặc vào để đi xem hội.

Đặt chiếc áo lên bàn, chàng nói:

- Xin gửi hai sư huynh chiếc áo này làm tin. Ngày mai tôi sẽ đem tiền đến chuộc, còn nếu không, coi như tôi đã nộp phạt bằng chiếc áo. Xin hai sư huynh thả cô gái này ra.

Thật đột ngột, hai vị sư nam chẳng kịp có phản ứng gì, chỉ kinh ngạc đưa mắt nhìn nhau rồi lại kinh ngạc nhìn chàng trai trẻ. Họ không hay biết đó là quan huyện Tiên Du. Họ nói với cô gái: "Thôi, cô về đi", rồi vái nhẹ chàng nho sinh, cầm chiếc áo, đoạn, bước ra ngoài. Trên mặt của  cả hai người đều thấy thoáng một nét buồn - chắc là nỗi buồn của thân phận.

Từ Thức tiến lại gần cô gái. Nàng e lệ cúi đầu, miệng nói lời cảm tạ còn tay chắp lại toan vái. Chàng vội vã đưa tay làm dấu ngăn lại, đoạn cả hai, kẻ trước người sau, bước ra phía cổng chùa, trước con mắt ngạc nhiên thán phục của mọi người.

Họ không nói với nhau một lời nào trên suốt chặng đường đi. Chỉ có tiếng bước chân nhẹ nhàng lướt trên nền đất điểm lá. Khi vừa ra ngoài cổng chùa, nàng bỗng vượt lên, rồi quay lại phía chàng, chắp cả hai tay: "Xin đa tạ quí nhân. Hẹn có ngày gặp lại!" Vừa nói xong, nàng đã quay mặt, rồi đi lẫn ngay vào trong đám đông, được một lúc sau thì khuất dạng.

Sự việc diễn ra quá ư đột ngột, khiến cho chàng Từ Thức chết lặng hẳn người, chẳng kịp đôi hồi, chỉ còn biết dõi mắt nhìn theo và trong lòng cũng rộn lên muôn điều ngàn nỗi. Đến khi tầm mắt không còn phân biệt được gì, thì chàng cảm thấy hoàn toàn thất vọng. Tưởng như trời đất bỗng đâu nghiêng ngả quay cuồng, và chàng phải đứng tựa vào cổng chùa để giữ thăng bằng cho khỏi ngã. Ôi! Thế mới biết, cõi nhân gian này mới nhỏ bé và tội nghiệp làm sao! Cõi nhân gian này cũng thực mông lung đầy niềm bất trắc thế nào vậy!

Trở lại huyện đường, Từ Thức sống như trong mộng ảo, chẳng thiết tha gì đến công việc. Hình bóng người đẹp in hằn lên mỗi bữa ăn, mỗi giấc ngủ của chàng. Chàng cảm thấy cuộc đời này sao mà nhàm chán vô nghĩa. Cuộc đời làm quan của chàng lại càng nhàm chán vô nghĩa hơn nữa. Lúc nào cũng phải nghiêm trang, phải tuân thủ theo giờ giấc răm rắp. Lại phải tỏ ra khúm núm qụi luỵ trước quan trên, ra thưa vào bẩm. Đấy là còn chưa kể đến hàng đống sổ sách, công văn, giấy tờ phải ghi, phải đọc và phải thực hiện...

Tin tức người đẹp lại vẫn tuyệt nhiên chẳng thấy ở đâu. Không thể hỏi han, không thể viếng thăm nên cũng không thể hi vọng. Từ Thức vô cùng buồn bã. Trong thời gian có mấy tháng mà chàng làm đến cả ngàn bài thơ để diễn tả nỗi cô đơn và nỗi buồn của mình. Ôi! Những kẻ sĩ si tình, khi lâm vào hoàn cảnh ấy thì còn có thể bộc bạch lòng mình bằng cách nào khác được?

Kể ra thì nỗi buồn cũng không đến nỗi làm chàng Từ Thức ngã qụi. Chàng vẫn có thể gắng gượng để lo phận sự của mình. Tuy nhiên, có một lần quan trên đến thanh tra, thấy công văn để ùn tắc lâu quá, đã nghiêm nét mặt lại mà khiển trách:

- Thân phụ thầy đã làm đến Đại thần mà thầy lại không làm nổi một chức Tri huyện hay sao?

Lúc ấy Từ Thức đỏ bừng mặt, lặng yên không nói năng gì, nhưng đêm về, nghĩ lại thấy hổ thẹn trong lòng: Làm trai mà để nhục cho cha mẹ thì thực là mang tội bất hiếu. Lại nghĩ, bản tính mình vốn không có duyên phận với nghề làm quan, thì chẳng thà lui về quê là hơn. Ở lại chỉ bận chuốc thêm lấy bực mình, và biết đâu, lại chẳng chuốc thêm lấy tai vạ. Khi mà lưng không uốn thì lộc cũng nên từ - ấy là cái lẽ đời mà mình cần phải tuân thủ.

Ngay đêm hôm ấy, Từ Thức viết đơn từ quan. Mấy ngày sau, bàn giao xong công việc, chàng ghé qua thăm chùa Phật tích một lần cuối cùng, rồi nhẹ bước về quê, trong lòng chẳng mảy may hối tiếc.

Gia tư nguyên quan đại thần họ Từ, phụ thân của chàng, dĩ nhiên cũng thuộc loại bề thế, sang trọng, đầy những toà ngang dẫy dọc. Biết tính con ngay từ ngày còn bé nên người cha cũng chỉ nhắc nhở qua loa, còn để mặc cho chàng sống theo sở nguyện, miễn sao không làm điều gì tổn hại đến luân thường đạo lý. Ông còn có mấy người con trai nữa nên cũng chẳng lo không có người để mở mày mở mặt với hậu thế sau này.

Trở về quê, Từ Thức sống những ngày an nhàn, thanh thản. Chỉ có người đẹp ở chùa Phật Tích là thỉnh thoảng lại gợi nỗi sầu muộn trong trái tim chàng. Những lúc như thế, chàng thường dạo chơi trong vùng, đến những nơi có phong cảnh đẹp để cho khuây khoả.

Ở vùng Hoá Châu quê hương của chàng, lại là nơi có rất nhiều phong cảnh đẹp. Núi Chính Trợ uy nghiêm, đầy vẻ trầm tư. Động Lục Vân huyền bí, lung linh những màu sắc diệu kỳ. Còn sông Lãi thì uốn lượn, lúa ngô xanh tốt đôi bờ. Cửa Nga Sơn quanh năm lộng gió, sóng biển dâng lên cuồn cuộn, và thấp thoáng bóng những thuyền bè... Hồn thơ lúc nào cũng lai láng, đến nơi nào Từ Thức cũng có thơ đề vịnh. Duy có điều, trong tất cả các bài thơ, đều thấy phảng phất một nỗi buồn.

Một hôm vào khoảng tháng hai khí trời thoáng đãng, Từ Thức dậy từ rất sớm ra cửa Thần Phù ngắm cảnh. Bỗng đâu ở phía khơi xa có đám mây ngũ sắc hợp lại, kết thành hình đoá hoa sen rực rỡ. Chưa thấy sự lạ như thế xảy ra bao giờ, Từ Thức vội vàng chèo thuyền ra xem, nhưng đến nơi lại thấy đấy là một trái núi tuyệt đẹp. Từ kinh ngạc tự nhủ thầm: "Ta đã từng du ngoạn khắp mọi nơi. Những thắng cảnh ở miền đông nam này có chỗ nào mà ta chưa đặt chân tới? Không biết trái núi này từ đâu lại hiện ra ở ngay trước mắt mình. Có lẽ thần tiên hoá phép ra như thế chăng?"

Nghĩ đoạn, Từ Thức liền kéo thuyền lên bãi, nhưng khi ngẩng lên thì lại thấy trước mặt lại là một vách đá dựng đứng, cao đến ngút tầm mắt, xung quanh có lớp lớp rêu phong và cây cối um tùm. Đang băn khoăn chưa biết thế nào thì bỗng đâu Từ nghe có tiếng "chát" rất lớn, rồi thấy vách đá tự nhiên nứt ra một cái hang, hình vòng tròn, rộng đến chừng một trượng. Từ đánh bạo bước ngay vào hang vì nghĩ rằng hẳn trời đất có tình ý chi đây, nên mới biến hoá ra như vậy.

Nhưng khi Từ Thức bước vào cửa hang và đi được vài bước thì bỗng thấy trời đất tối sầm. Ngoảnh lại Từ thấy cửa hang tự nhiên đã khép kín miệng lại. Đánh liều, Từ cũng đành mò mẫm bước đi, nhưng càng đi lại càng thấy chột dạ. Hang đã sâu lại trơn nhẵn, thành thử vừa đi Từ vừa phải vịn tay theo từng mô đá cho khỏi ngã. Nghĩ phen này chắc phải rơi xuống địa ngục, thì vừa lúc tay Từ sờ thấy một khe nhỏ hướng lên phía trên. Mừng quá, Từ vội vàng bám vào vách đá trườn lên, và càng trườn lên, Từ càng có cảm giác như khe đá được nới rộng thêm ra, và một lúc sau, đã thấy ánh sáng le lói ở phía trước mặt. Từ vẫn gắng gượng leo tiếp, được một lúc nữa thì tự nhiên ánh sáng ở đâu ập tới. Thế là đã ra khỏi miệng hang, và bây giờ, trước mặt Từ hiện ra một quang cảnh vô cùng choáng ngợp, vô cùng lộng lẫy, chưa từng chấy bao giờ. Đấy là hàng dẫy những toà lâu đài và thành quách được dát toàn bằng vàng bằng bạc, và ở phía trước mỗi lâu đài, đều có treo đèn lồng lớn bằng ngọc bích. Có lẽ là chốn thần tiên - Từ Thức xiết bao sửng sốt bàng hoàng.

Đang dõi mắt ngắm nhìn cảnh vật, Từ chợt thấy có một cô gái mặc áo xanh đến thi lễ ở ngay trước mặt, rồi nói:

- Xin chào công tử. Phu nhân chúng tôi có lời mời công tử lại thăm nhà.

Từ đáp lễ rồi đi theo cô gái. Sau khi vòng quanh một bức tường phủ gấm, lại bước qua một khung cửa điểm ngọc, trước mặt Từ bây giờ là một cung điện nguy nga, toả ánh sáng lung linh, huyền ảo.

Một bà tiên đang ngồi trên giường thất bảo khảm ngọc lưu ly, bước ra cửa đón chàng. Khi hai bên thi lễ xong, bà mời Từ ngồi xuống chiếc giường nhỏ bên cạnh làm bằng gỗ đàn hương có khảm ngọc trai. Bà tiên mời Từ uống nước, rồi nói:

- Từ ngày con gái ta lâm nạn được công tử cứu giúp đến nay, tính theo lịch hạ giới, đã trọn một năm. Bây giờ mới có dịp mời công tử đến để trả ơn, xin công tử thứ lỗi cho.

Từ vội thưa lên:

- Thưa quí phu nhân, người dạy quá lời. Kẻ hàn sĩ làm việc nghĩa, ấy cũng là theo lẽ tự nhiên thôi. Chỉ hiềm một nỗi khi ấy cô nương lại ra đi đột ngột, khiến cho trong lòng lúc nào cũng tơ tưởng nhớ mong. Bây giờ nếu được gặp lại thì thực có vui mừng nào bằng.

Bà tiên mỉm cười, ra hiệu cho cô hầu gái. Một lát sau, có một nàng tiên dáng điệu thướt tha bước lại.

Vừa trông thấy người đẹp, Từ Thức đã bồi hồi xúc động. Dung quang nàng cũng vẫn như ngày trước, còn vẻ vui tươi thì đã tăng thêm gấp bội phần.

Bà tiên trỏ vào con gái, bảo:

- Con gái ta đây là Giáng Hương. Chuyện năm ngoái về nó đã thưa lại. Xưa nay, ơn cứu mạng thì báo đáp suốt đời, dù luật trần gian hay luật trên trời, cũng đều như vậy cả. Nếu công tử không chê, xin hãy ở lại cùng Giáng Hương nên vợ nên chồng, để cho trọn tình vẹn nghĩa.

Thực là lời nói như cởi tấm lòng, Từ Thức chẳng có vui mừng nào lớn hơn. Chàng bước ra khỏi giường, đến quì xuống trước mặt bà tiên và xin nhận làm nhạc mẫu.

Ngày cử hành hôn lễ của Từ Thức - Giáng Hương thực là một ngày hội chư tiên tưng bừng. Dưới trần gian, dẫu các hạng vua chúa lấy vợ lấy chồng thì cũng không thể nào so sánh. Mỗi vị tiên mang một loại trang phục khác nhau, đều cực kỳ sang trọng và trang nhã, lại cưỡi trên mình những con vật quí mà dưới trần chỉ mới được nghe tên. Mỗi khi một cơn gió thổi ào tới cùng với mùi hương trầm thơm ngát, là lại thấy một vị tiên mới xuất hiện.

Khi các chư tiên đã tề tựu đông đủ thì yến tiệc được bày ra, nhanh cũng chỉ trong một thoáng. Đầy các của ngon vật lạ mà sơn hào hải vị ở dưới cõi trần cũng chẳng sánh bằng. Các thức ăn lại được bày trên bát đĩa bằng ngọc thạch và được đặt trên mâm vàng mâm bạc. Khi các chư tiên mở rượu khai vị thì mùi hương thơm ngào ngạt lan toả ra khắp cả bầu trời.

Các tiên lần lượt đến chúc mừng cho ngày vui và hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Vẻ hào hoa thanh lịch hiện ra trong mỗi ánh mắt, nụ cười. Để đáp lại, Giáng Hương, Từ Thức biểu hiện những cử chỉ cũng thực muôn phần duyên dáng, nhã nhặn.

Sau bữa tiệc, các chư tiên cùng nhau múa hát tưng bừng. Những vũ điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển, hoà quyện trong tiếng nhạc trầm bổng du dương, tưởng chừng như cuộc vui rồi sẽ kéo dài ra mãi thời gian và ra khắp không gian.

Từ Thức nhân đó khẽ bảo với Giáng Hương:

- Có lẽ các chư tiên cũng đều có lòng vật dục như con người ở dưới cõi trần chăng?

Giáng Hương nghiêm sắc mặt lại, trả lời:

- Xin chàng chớ nên nghĩ như thế. Chỉ có riêng mình thiếp là lòng còn vướng bụi trần. Chứ các chư tiên khác đều là do khí huyền nguyên của trời đất mà sinh ra cả.

Nghe thấy thế Từ Thức xiết bao kinh ngạc, nhưng không để lộ ra nét mặt bên ngoài. Lại chợt nghĩ dẫu sao thì mình cũng còn có niềm tin tưởng: Về cốt cách, Giáng Hương chẳng đã có điểm tương đồng với mình đó sao?

Sau hôn lễ, Từ Thức tập làm quen dần với đời sống nơi tiên cảnh. Sẵn nếp hào hoa phong nhã, chàng có cách ứng xử hợp tình hợp lý, khiến cho nhạc mẫu vừa ý và Giáng Hương cũng thực đẹp lòng. Lại sẵn hồn thơ lai láng, có lần chàng vảy bút làm đến cả chục bài thơ, mà bài thơ nào cũng thuộc loại "lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu" cả. Còn khi cao hứng lên thì chàng đàn hát cũng thực mê mẩn, say sưa. Những ngón đàn tuyệt kỹ của chàng khiến cho các chư tiên nghe thấy cũng đều phải thán phục, lắc đầu. Ôi! Những ngày sống vô tư lự, sống hết mình của chàng mới thực sung sướng, mới thực hoàn mỹ làm sao! Chẳng bao giờ phải lo đến chuyện sinh kế. Muốn có thứ gì chỉ cần hoá phép ra một lần là đủ. Cũng chẳng bao giờ có sự ganh ghét, đố kỵ, là những thói xấu xa, phàm tục của người đời. Ở nơi tiên cảnh, cảnh đã đẹp như gấm như hoa, các chư tiên thì đối xử với nhau lại thực khoan hoà, độ lượng, chẳng thế mà bao đời nay cả loài người đã từng mơ ước, thèm khát đời sống ấy đó sao?

Thế nhưng cuộc sống ấy lâu dần hoá ra lại là không thích hợp với chàng Từ Thức. Không phải ngày nào cũng làm thơ, ngày nào cũng ca hát vui vẻ được. Của ngon vật lạ ngày nào cũng có, nhưng vì thế mà lại thành ra tầm thường. Bạc vàng châu báu dùng mãi rồi cũng chẳng thấy sang thấy quí nữa. Đã thế, các chư tiên ở đây còn có bầu bạn xum vầy, chứ Từ Thức thì biết chuyện trò, chia sẻ tâm sự cùng ai, chẳng lẽ lúc nào cũng quanh quẩn bên vợ? Hoa lá cỏ cây, con đò bến nước, và nhiều thứ khác..., đành rằng chỉ cần hoá phép ra là có, nhưng bất chợt cặp mắt muốn nhìn, thì nào có thấy đâu! Lại còn cha mẹ, anh chị em, họ hàng làng xóm nữa, làm sao chàng có thể nguôi quên được họ! Đấy là còn chưa kể đến bao nhiều công việc làm ăn sinh sống và những nỗi lo toan, mà cho dù cực nhọc, cho dù khốn khó, thì dẫu sao cũng vẫn là nguồn động viên, là nguồn hy vọng và sự kích thích năng lực của con người. Thiếu những thứ đó, con người tưởng được thanh nhàn, tưởng được nghỉ ngơi, nhưng hoá ra lại làm cho chân tay bải hoải, và đầu óc tâm hồn cũng trở nên ngưng trệ, trống rỗng.

Chung qui, cũng chỉ tại chàng Từ Thức vẫn còn mang nặng kiếp người, chứ chưa thể khoác ngay "lốt" tiên vào cho mình được. Xem thế đủ biết, kiếp trần này nặng nợ mà cũng thật nặng tình, không thể vứt bỏ đi, để thay vào đó là một kiếp tiên cho dù là hoàn hảo được!

Sau đó mấy tháng, nỗi buồn mới chỉ bất chợt nhen nhóm ở trong lòng Từ Thức, nhưng sau một năm, thì nỗi buồn ấy đã hiện ra bên ngoài nét mặt, nên tránh sao khỏi cặp mắt nhìn và xét đoán của Giáng Hương. Một hôm nàng hỏi chồng:

- Chẳng hay thiếp đối với chàng có điều gì không phải, nên chàng mới tỏ ra không hài lòng như thế?

Lúc đầu Từ Thức còn chối quanh, nhưng về sau chàng cũng đành phải thú thật:

- Chẳng dấu gì nàng, ở đây tuy là miền cực lạc, nhưng dẫu sao nhiều khi tôi vẫn còn cảm thấy canh cánh trong lòng.

Giáng Hương nghe thấy thế, buồn bã nói:

- Vậy... hoá ra là chàng nhớ nhà, nhớ quê hương, chẳng thể dứt bỏ đi được! Thế mà thiếp cứ tưởng bấy lâu nay chàng đã một lòng một ý với thiếp rồi! Thôi việc này là tuỳ chàng... Làm sao thiếp có thể thay thế cho ước muốn của chàng được!

Mấy ngày sau, Từ Thức xin phu nhân cùng với Giáng Hương, cho chàng được trở lại thăm quê hương một lần.

Phu nhân dịu dàng nói:

- Chẳng hay con đã suy nghĩ kỹ càng chưa?

Từ Thức im lặng hồi lâu, rồi cung kính đáp:

- Thưa nhạc mẫu, con đã suy nghĩ kỹ càng rồi.

Phu nhân đứng dậy, phất tay một cái, tự nhiên một cỗ xe cẩm vân lướt đến trước thềm. Phu nhân chỉ chiếc xe, nói:

- Ta tặng con vật này để đi đường xa cho đỡ mệt nhọc. Thôi chúc con lên đường may mắn...

Nói rồi phu nhân lui gót vào phòng trong. Lúc ấy Giáng Hương mới tiến lại phía chàng:

- Thiếp tưởng sẽ được cùng chàng ăn đời ở kiếp, nhưng nào ngờ giờ đây đã phải đứt gánh giữa đường...

Nói đoạn, nàng rút từ ống tay áo ra một bức lụa cuốn, đưa cho chàng, rồi nói tiếp:

- Xin gửi chàng vật này. Khi về tới cõi trần thì chàng hãy mở ra đọc. Gọi là một chút kỷ niệm của thiếp...

Vừa nói, nước mắt nàng vừa lã chã tuôn rơi. Chàng cũng thấy mình nước mắt vòng quanh, phải đưa khăn lên để thấm.

Xe cẩm vân chỉ thoáng chốc đã đưa Từ Thức về đến trước nhà. Nhìn xung quanh, thấy cảnh núi non, sông nước vẫn như xưa, nhưng làng mạc, nhà cửa thì đã đổi thay, hoạ hoằn lắm mới có chút dấu vết của ngày trước. Từ Thức cảm thấy bùi ngùi trong dạ. Đường làng tuy có nhiều người đi lại, nhưng nhìn ai chàng cũng thấy lạ lùng, vì chưa từng gặp mặt bao giờ. Chợt có một ông lão râu tóc bạc phơ tiến lại gần, chàng bèn đến cầm lấy tay, hỏi han. Cụ già nói:

- Thuở bé tôi có nghe nói em ông cụ tam đại nhà tôi cũng có tên như ông, nhưng đã đi ra biển, rồi không thấy trở về nữa. Tính ra từ đó đến nay cũng đã hơn một trăm năm rồi...

Nghe thấy thế, Từ Thức xiết bao bàng hoàng, rồi bỗng như bừng tỉnh chợt hiểu ra sự tình. Thế là một năm trên tiên cảnh bằng cả trăm năm ở dưới cõi trần, trách chi mà chẳng vật đổi sao dời. Chàng chào ông lão, rồi toan bước lại gần cỗ xe, nhưng ngay lập tức, cỗ xe đã hoá ra một con chim loan, bay đi mất.

Từ Thức tìm đến tấm lụa vẫn để ở một bên tay áo, nhớ tới lời Giáng Hương dặn dò, chàng bèn mở ra xem. Khi đọc đến hai chữ "vĩnh biệt" ở cuối thư, thì chàng hiểu rằng, con đường trở lại cõi tiên của chàng từ nay đã hoàn toàn không còn nữa.

Chàng lững thững bước ra khỏi làng, rồi cứ như thế mà đi mãi, đi mãi...

*

*       *

Người các đời sau đã bàn luận khá nhiều về câu chuyện chàng Từ Thức này. Chẳng mấy ai không tiếc cho chàng: sao không ở lại cõi tiên mãi mãi?

Nhưng có lẽ cũng chẳng mấy ai thực sự thông cảm với chàng: Hễ cứ muốn từ bỏ cõi trần là trong lòng thanh thản và có thể thực hiện được hay sao?

Ôi! Cõi trần! Phải chăng đó là định mệnh, là số kiếp của con người?

0