18/06/2018, 12:58

Trang phục lực lượng vũ trang cách mạng

Trang phục quân đội nhân dân Việt Nam Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 22-12-1944 tại chiến khu Việt Bắc, Đội Võ trang Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam được thành lập. Đây là những người chiến sĩ cách mạng đã sớm giác ngộ, với quân số 34 người, những người đầu tiên ...

Trang phục quân đội nhân dân Việt Nam

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 22-12-1944 tại chiến khu Việt Bắc, Đội Võ trang Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam được thành lập. Đây là những người chiến sĩ cách mạng đã sớm giác ngộ, với quân số 34 người, những người đầu tiên của lực lượng võ trang chính qui của Đảng. Dù cùng chung một lý tưởng nhưng khác nhau về thành phần xuất thân, nghề nghiệp v.v..., lại do hoàn cảnh lúc ấy mỗi người phải có một việc làm nào đó vừa để sinh sống, vừa để che mắt kẻ thù nên trang phục mỗi người một vẻ: người mặc quần áo chàm, người mặc quần áo nâu, người mặc com lê, người đi hài xảo, người đi giày vải, người đi giày da v.v...Vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, tình hình trang phục của quân đội này biến chuyển tùy thuộc sự ủng hộ của nhân dân và tùy thuộc những chiến lợi phẩm thu được của địch sau mỗi trận đánh thắng. Do đó ngoài quần áo thường, có khi các đội viên còn mặc cả quần áo lính khố xanh, lính khố đỏ, quần áo lính hoặc võ quan Pháp, Nhật...

Hiện tượng trên kéo dài cho tới ngày Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Để ra mắt nhân dân Thủ đô Hà Nội, chào mừng ngày lễ Độc lập (2-9-1945). Đội Võ trang tuyên truyền Giải phóng quân từ chiến khu về Hà Nội đã được trang bị đồng bộ.

Nam: Áo sơ mi cộc tay, vạt áo bỏ trong quần. Mặc quần soóc, thắt lưng da to bản. Chân đi giày da ngắn cổ. Đội mũ cát màu trắng.

Nữ: Áo sơ mi cộc tay, có túi ở ngực, thắt lưng da to bản. Mặc quần vải màu đen, gấu quần túm gọn. Đi giày ba ta. Tóc cặp gọn. Đội mũ rộng vành màu chàm.

Đã giành được chính quyền, nhưng vấn đề trang phục quân đội vẫn chưa được qui định, sự trang bị tùy thuộc khả năng của từng đơn vị, từng địa phương. Riêng ở Hà Nội, các chiến sĩ Vệ quốc quân (đa số là tiểu tư sản học sinh, công nhân) mặc rất đẹp. Áo sơ mi, quần bó ống, đi giày da cổ thấp. Đặc biệt là có loại mũ ca lô vải màu vàng hay bằng dạ tím than, đội lệch trên đầu. Trước mũ đính một ngôi sao vàng trên nền đỏ tròn. Tự vệ chiến đấu thành đeo sao vàng, nền đỏ vuông (đều bằng vải hoặc nỉ màu đỏ). Đối với cán bộ chỉ huy, quân hiệu còn thêu thêm một vành chỉ màu vàng cho các cấp tiểu đội trưởng, trung đội trưởng, đại đội trưởng từ cấp chi đội trưởng thêu bằng chỉ kim tuyến (vàng). Cấp phó, thêu một vành bằng chỉ màu trắng, từ cấp chi đội phó thêu bằng chỉ ngân tuyến (bạc).

Ngoài ra, còn có cấp hiệu hình chữ nhật (5cm x 2cm) gài ở túi ngực bên trái. Cấp hiệu, nền bằng vải màu đỏ, ở giữa thêu sao màu trắng. Cấp cán bộ tiểu đội: một sao, trung đội: hai sao, đại đội: ba sao, chi đội: bốn sao. Cấp trưởng, thêu vành vàng, cấp phó thêu vành trắng.

19-12-1946, ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Các lực lượng vũ trang tản vào dân, dựa vào dân, mặc như dân. Ở miền Bắc, miền Trung chủ yếu mặc vải nâu: áo cánh có hai túi, quần ta buộc túm ống (do đó có tên gọi bộ đội là Vệ túm. Cũng có người cho rằng do một số chiến sĩ rách áo, rách quần, chưa vá kịp, lấy dây buộc túm lại, nên có tên gọi như vậy). Có người mặc sơ-mi, quần Âu. Mũ nón, giày dép có gì dùng vậy. Có người đi chân đất. Cán bộ mặc thêm áo blu-dông, áo vét Ca-na-điêng, áo va-rơi... tùy theo khả năng tự túc. Chiến sĩ khu V, mặc áo cánh, quần ta màu tro xám, bằng vải sợi bông gọi là vải Sita. Miền Nam thường mặc áo bà ba đen, quần đùi, do đặc điểm thời tiết nóng và do phải hoạt động trong địa hình Nam Bộ nhiều kênh rạch, sình lầy.

Cuối năm 1947, xuất hiện chiếc áo chấn thủ trong quân đội. Áo chấn thủ rất đơn giản, ngắn đến thắt lưng, cổ, tròn, không có tay áo. Gồm có hai mảnh: mảnh trước và mảnh sau, nối liền nhau ở cạnh sườn và một bên vai. Còn cạnh sườn và trên vai bên kia thì cài cúc. Mỗi mảnh áo may hai lần vải, ở giữa nhồi bông, chần hình quả trám. Áo gọn gàng, giữ nhiệt tốt. Những năm kháng chiến gian khổ hiếm bông, có thời kỳ phải dùng lông vịt hay vỏ cây sui đập rập, phơi khô thay bông. Cúc, khuy cũng thiếu, phải dùng dây vải buộc hoặc làm cúc bằng giấy ép tẩm sơn thay thế.

Tấm áo chấn thủ đã trở thành một điển hình khi ta nói tới anh bộ đội thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thêm vào đó, không thể không nhắc tới chiếc mũ đan bằng tre, hoặc làm bằng lá cọ nhưng có đặc điểm là bọc vải chùm cả vành mũ, bên ngoài phủ một tấm lưới có dắt rải rác những miếng vải dù hoa xé nhỏ để ngụy trang. Có trường hợp mũ chỉ bọc vải dù hoa. Dưới chân anh bộ đội là đôi dép lốp cao su đen (thường gọi tắt là dép cao su).

Đôi dép cao su này từ khu Tư trở ra được gọi là dép Bình Trị Thiên. Đây là một sáng tạo có giá trị lịch sử, giải quyết được đồ đi cho quân, dân ta suốt thời gian kháng chiến chống Pháp và mãi về sau này. Chiến sĩ ta lấy lốp xe, đo chân cắt thành đế dép, dùi tám lỗ để xỏ quai bằng xăm ô tô (cao su đen): hai quai chéo phía trên, hai quai ngang phía dưới làm quai hậu và quai vàng. Bề ngang các quai khoảng 1 cm. Một đôi dép rất đơn giản, dùng được trong mọi điều kiện nắng, mưa, lội nước, đạp gai v.v... Bộ đội, nhân dân đang thiếu đồ đi, đa số đi chân đất, nay thấy đôi dép này ra đời với giá thành không đáng kể, nên lập tức mọi người ưa thích sử dụng. Dép lên đến Việt Bắc được cải tiến: hai quai chéo làm to bản ra và được đóng đanh tre thêm cho đỡ tuột. Có nơi dùng quai bằng cao su màu đỏ, cắt lượn khá đẹp.

Từ năm 1950, từng bước bộ đội được trang bị đồng bộ: áo sơ-mi hai túi, có cầu vai, quần Âu, ở gấu quần có khuy và khuyết để cài túm lại cho gọn gàng. Cả bộ màu xanh lá cây hay màu cỏ úa. Giày vải xanh, đế cao su. Nhiều người vẫn đi dép cao su đen.

Ở chiến dịch Tây Bắc (1952), để chống cái rét của vùng rừng núi, bộ đội được phát áo chấn thủ dài tay (như một thứ blu-dông bông). Ngoài ra, do thu được nhiều dù chiến lợi phẩm, mỗi người thường dùng một miếng dù to, khi hành quân thì ngụy trang, trời rét thì quàng cổ, đêm ngủ thì làm chăn đắp.

Năm 1953, quân đội ta bắt đầu được trang bị quân phục thống nhất và đến ngày tiếp quản Thủ đô (10-1954), đa số đã được mặc đồng phục.

Chiến sĩ: áo sơ-mi tay dài, cổ đứng, hai túi ngực có nắp, vai đệm thêm vải và máy 32 đường chỉ cho bền, thắt lưng vải ra ngoài, quần Âu, mũ cối, giầy vải (đế cao su), tất cả màu xanh lá cây hay màu cỏ úa. Mặc áo này, bỏ vạt ra ngoài quần. Mặc áo sơ-mi thường phải cho vạt áo vào trong quần.

· Cán bộ trung cấp: như chiến sĩ, áo có bốn túi trong, nắp ngoài, không có đệm vai, không thắt lưng ra ngoài áo.

· Cán bộ cao cấp: như cán bộ trung cấp, dùng loại vải tốt hơn (như ga-ba-đin).

Đã có quân hiệu bằng đồng hình tròn, đường kính 3cm, nền đỏ, có nhiều tia từ một ngôi sao vàng nổi ở giữa tỏa ra. Vành quân hiệu là một đường gờ nổi nhỏ, màu vàng.

Năm 1958 bắt đầu có trang phục, quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu của Lục quân, Hải quân, Không quân.

Lục quân: Trang phục như kiểu cũ (năm 1954). Quân hiệu hình tròn, đường kính 3,3 cm, nền đỏ, ở giữa là ngôi sao vàng nổi, có nhiều tia tỏa ra. Ở dưới là hình nửa bánh xe, hai bên là hai bông lúa ôm vòng lên, tượng trưng cho công nông đeo ở trước mũ.

Không quân: Áo blu-dông, hai túi ngực có nắp, quần Âu, đi bốt cao (hoặc giầy da đen), đội mũ bay. Quân hiệu, nền xanh da trời (tượng trưng cho bầu trời) ngôi sao vàng nổi ở giữa hình hai cánh chim bạc, phía dưới có hình nửa bánh xe, vòng hai bên là hình bông lúa.

Hải quân: Áo sơ mi trắng, vải dày, cổ chui, cổ áo liền yếm. Ngoài ra còn có một yếm trắng đệm trong cổ áo phía trước với năm đường kẻ màu tím than, tượng trưng cho sóng nước. Quần Âu màu tím than. Mũ vải trắng có vành da ghi chữ Quân đội nhân dân Việt Nam và hai dải vải màu xanh buông về phía sau.

. Quân hiệu, nền màu tím than, (tượng trưng cho màu biển), giữa là hình ngôi sao vàng nổi đè lên hình mỏ neo màu đỏ, phía dưới có hình nửa bánh xe, vòng hai bên là hình bông lúa.

· Cấp hiệu của các quân chủng đều nền màu vàng, viền chung quanh theo màu nền của từng loại quân hiệu. Cấp hiệu đeo ở cầu vai.

· Phù hiệu, nền theo màu của từng quân chủng, có các hình tượng trưng theo từng loại binh chủng. Phù hiệu đeo ở ve áo.

Trong khi ở miền Bắc quân đội tiến dần lên chính qui hiện đại thì ở miền Nam, các chiến sĩ Giải phóng quân vẫn ngày đêm đương đầu với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trong một cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt. Hình ảnh anh bộ đội thời kỳ kháng chiến chống Pháp được tô đậm nét cùng với tấm áo chấn thủ điển hình thì chiếc mũ tai bèo thời gian chống Mỹ cứu nước. Ở miền Nam lại là tượng trưng cho chiến sĩ Giải phóng quân kiên cường dũng cảm. Chiến sĩ Giải phóng quân mặc áo sơ mi, quần Âu vải xanh lá cây, đi giày vải. Đặc biệt là đội mũ tai bèo. Mũ tai bèo là một loại mũ vải màu xanh lá cây, vành mũ tròn và mềm trông giống như một cánh bèo. Chiến sĩ Giải phóng quân còn thường khoác một mảnh dù hoa để ngụy trang. Quân hiệu: nền nửa trên đỏ, nửa dưới màu xanh da trời, giữa là ngôi sao vàng nổi (tượng trưng cho lá cờ giải phóng miền Nam).

Ngoài những bộ trang phục thường dùng, ngành quân trang còn nghiên cứu sáng tạo ra nhiều bộ quần áo mới để góp phần giải quyết những vấn đề về quân sự trong cuộc đụng độ với một kẻ thù có một tiềm lực to lớn, có những phương tiện vũ khí hiện đại đặc biệt. Tuy đây không phải là trang phục chính qui nhưng những trang phục này có ý nghĩa lịch sử, góp phần vào những chiến công oanh liệt vang dội hoàn cầu. Đó là những quân trang nghiệp vụ.

· Bộ quần áo bay của chiến sĩ lái máy bay do ngành quân trang Việt Nam sản xuất, được mặc ra ngoài bộ quần áo cao áp, được may theo qui cách riêng, phù hợp với đặc tính chiến đấu của ta, tạo điều kiện thuận lợi sử dụng những thiết bị mang theo người gọn nhẹ: quần sáu túi, áo mười túi, kiểu may mang những nét dân tộc để khi nhảy dù không lẫn với phi công địch.

· Áo phao cho các chiến sĩ đặc công thủy. May theo kiểu áo cộc tay, hai lần vải, ở giữa chứa hạt xốp có tác dụng làm nổi người, nhất là đối với những trường hợp chiến sĩ đuối sức, hay bị ngất đi trong khi làm nhiệm vụ dưới nước.

· Áo giáp: trên cơ sở áo chấn thủ hai lượt vải, giữa áo giáp có đặt các miếng tre đực hay kim loại. Hoặc buộc ở ngoài áo nhiều miếng kim loại xếp chồng lên nhau như vẩy tê tê hay mái ngói, có tác dụng chống mảnh đạn hay bom bi của địch. (Ta có thể liên tưởng đến các mảnh giáp thời Hùng Vương). Áo giáp ngắn cho chiến sĩ lái xe ô tô. Áo giáp dài cho chiến sĩ đứng ở điểm chốt (đếm bom rơi hay báo động...). Áo này nặng đến 27kg.

Sau khi thống nhất đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên chính qui, hiện đại, trang phục quân đội được nghiên cứu kỹ càng, chu đáo hơn. Ngoài chức năng thực dụng, phù hợp với tính chiến đấu cao, phù hợp với điều kiện thời tiết ở Việt Nam, phù hợp với khả năng kinh tế trước mắt, còn đồng thời quan tâm nhiều đến yếu tố thẩm mỹ.

Năm 1982, trang phục của Quân đội nhân dân Việt Nam được qui định để áp dụng thống nhất trong toàn quân (gọi là quân phục K82).

Quân phục K82 có kiểu để mặc trong mùa hè, mùa thu, có kiểu để mặc trong mùa đông, mùa xuân, có kiểu dùng cho sĩ quan, chuẩn úy, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên nam và nữ, có kiểu của bộ đội Hải quân, có kiểu dùng cho lực lượng làm nhiệm vụ riêng biệt. Về quần, nói chung là một kiểu thống nhất. Về chất liệu, tùy theo cấp bậc, có những loại vải khác nhau. Về qui cách mặc, về trường hợp sử dụng như khi làm việc, khi hội họp, khi dự lễ, khi đi nước ngoài... đều được qui định.

Khi làm việc, học tập, hội họp bình thường ở trong nước, sĩ quan chuẩn úy, quân nhân chuyên nghiệp và nữ, mùa hè, mùa thu nam mặc áo (kiểu như sơ-mi bludong) chít gấu, dài tay, cổ đứng, hoặc áo chít gấu, ngắn tay, cổ bẻ. Nữ mặc áo dài tay cổ đứng hoặc áo dài tay cổ bẻ không có áo ngắn tay. Cả hai loại đều có 2 túi ngực may ngoài, nắp túi lượn. Mặc quần dài. Đeo quân hàm kết hợp. Đi giày hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm.

Mùa đông, mùa xuân, mặc quân phục K82 đồng bộ cùng một loại vải, theo màu của từng quân chủng. Áo sơ mi trong cổ đứng, màu quân phục (không mặc màu khác). Cra-vát màu rêu thẫm. Áo ngoài cổ bẻ, có 4 túi nổ, nắp lượn. Quần như kiểu mùa hè. Đeo quân hàm kết hợp. Đội mũ mềm hoặc mũ cứng, ở vùng rét nhiều có thể đội mũ bông. Đi giày (không được đi dép).

Riêng bộ đội Hải quân, mặc áo sơ-mi màu trắng hoặc màu ghi nhạt trong áo quân phục mùa đông K82, đeo cra-vát màu tím than.

Bộ đội Hải quân đánh bộ, mặc theo kiểu và màu quân phục bộ binh, đeo quân hàm kết hợp màu tím than, có hình phù hiệu Hải quân đánh bộ.

Bộ đội Không quân của Hải quân mặc theo kiểu và màu quân phục Không quân, mang quân hàm kết hợp màu tím than, có hình phù hiệu Không quân.

Lúc rét, có thể mặc áo khoác dài K82, chỉ đeo quân hàm kết hợp. Khi mặc áo khoác, áo mưa có dây thắt bên ngoài, phải thắt và cài ngay ngắn về phía trước.

Hạ sĩ quan, binh sĩ và học viên chưa phải là hạ sĩ quan hoặc chuẩn úy, là nam, mặc quân phục K82 chiến sĩ, áo chùm mông, hai túi ngực có nắp lượn, cổ cài kín ống tay có cài khuy, vạt áo bỏ ngoài quần, thắt lưng to bên ngoài. Khi mặc quân phục kiểu áo sơ-mi và áo kiểu của Hải quân, vạt áo bỏ trong quần, thắt lưng nhỏ bên ngoài. Mang quân hàm kết hợp, đội mũ cứng hoặc mũ mềm. Ở vùng rét nhiều, có thể đội mũ bông. Đi giày hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng.

Nếu là bộ đội Hải quân, mặc quân phục kiểu áo có yếm theo từng mùa. Mang quân hàm vuông ở đầu bả vai. Đội mũ cứng như mũ bộ binh hoặc đội mũ mềm màu xanh tím than. Mũ (có dải) cả hai mùa đều màu trắng chỉ dùng trong nghi lễ và hội họp long trọng. Trên mũ này có quân hiệu và chữ "Hải quân Việt Nam" màu vàng. Đi giày hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng.

Học viên của Hải quân, mặc như quân phục học viên bộ binh nhưng theo màu Hải quân tùy theo từng mùa.

Hải quân đánh bộ, mặc như kiểu và màu quân phục bộ binh, mang quân hàm kết hợp màu tím than của Hải quân, có hình phù hiệu Hải quân đánh bộ.

Bộ đội Không quân của Hải quân mặc theo kiểu và màu quân phục Không quân. Mang quân hàm kết hợp màu tím than của Hải quân, có hình phù hiệu Không quân. Đội mũ cứng như bộ binh hoặc mũ mềm màu tím than. Đi giày hoặc đi dép, khi cần thiết có thể đi ủng.

Đối với nữ, (gồm tất cả các quân chủng), mặc quân phục K82 của nữ. Áo hai túi ngực có nắp lượn, chiết ly eo, gấu áo to, tay áo măng sét, cài khuy. Đeo quân hàm kết hợp, đội mũ cứng hoặc mũ mềm, ở vùng rét nhiều có thể đội mũ bông. Đi giày hoặc đi dép.

Các lực lượng làm nhiệm vụ riêng biệt, khi công tác, học tập, hội họp bình thường mặc quân phục thường dùng theo từng mùa như qui định ở trên (tùy theo từng đối tượng). Còn khi làm công tác nghiệp vụ, bộ đội gác Lăng và bảo vệ khu Bảo tàng Hồ Chí Minh, bộ đội danh dự của Bộ và Quân nhạc, mặc quân phục K82 màu trắng có viền đỏ ở vành mũ kê-pi, ở ve áo, ngoài và nẹp dọc quần. Mũ kê-pi có dây màu vàng. Các áo nổi màu vàng có ngôi sao giữa hai bông lúa.

Áo sơ mi trong của bộ đội gác Lăng và bộ đội bảo vệ khu Bảo tàng Hồ Chí Minh màu trắng, của bộ đội danh dự và quân nhạc màu cỏ úa, cra-vát màu rêu thẫm. Khi hòa nhạc hoặc phục vụ lễ tang, quân nhạc mặc áo sơ mi trắng, đeo cra-vát đen.

Văn công quân đội chuyên nghiệp mặc quân phục khi biểu diễn.

Các đơn vị chuyên môn như lái máy bay, lái xe tăng, xe bọc thép, thợ máy, bộ đội đặc công, quân y... khi luyện tập, hoạt động, công tác theo nghiệp vụ chuyên môn nào thì mặc trang phục nghiệp vụ đó.

Các lực lượng cảnh vệ, canh gác các cơ quan Trung ương Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, các cơ quan Bộ tư lệnh Quân khu, Quân đoàn, Binh đoàn Quân chủng, Binh chủng, các Học viện và trường thuộc Bộ, các lực lượng kiểm soát quân sự chuyên nghiệp làm nhiệm vụ mặc quân phục K82 có thắt lưng to bên ngoài. Ban ngày mang quân hàm vai, phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn, đội mũ kê-pi, đi giày. Ban đêm đội mũ cứng hoặc mũ mềm, mang quân hàm kết hợp, khi cần thiết có thể đội mũ sắt.

Đi công tác, học tập, hội họp, công tác ở nước ngoài, sĩ quan hoặc chuẩn úy kể cả quân nhân chuyên nghiệp và nữ mặc quân phục K82.

Khi nóng, mặc quân phục hè theo màu của từng quân chủng, áo chít gấu dài tay, cổ cứng, có cra-vát (màu rêu thẫm), mang quân hàm vai (không đeo phù hiệp ở ve áo), đội mũ kê-pi, đi giày da, đeo cuống huân chương.

Khi rét, mặc quân phục đông đồng bộ theo màu của từng quân chủng. Áo sơ mi trong cổ cứng, màu quân phục, có cra-vát (màu rêu thẫm), mang quân hàm vai. Ve áo của cấp tướng, đeo cành tùng và một ngôi sao màu vàng, của cấp tá và cấp úy đeo nền phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ kê-pi của cấp tướng có cành tùng kép màu vàng bao quanh quân hiệu, và dây màu vàng, của cấp tá có dây màu vàng, của cấp úy không có dây màu vàng. Riêng mũ kê-pi của sĩ quan Hải quân vành mũ màu trắng, thành mũ màu xanh tím than (cả hai mùa). Đi giày da, đeo cuống huân chương.

Khi rét, mặc áo khoác ngoài kiểu K82, đeo quân hàm vai, ve áo cấp tướng có cành tùng và một ngôi sao vàng, của cấp tá đeo nền phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn.

Hạ sĩ quan, binh sĩ và học viên chưa phải là sĩ quan hoặc chuẩn úy, mặc quân phục K82 như ở trong nước, mang quân hàm vai, phù hiệu có hình quân chủng binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ kê-pi, đi giày, đeo cuống huân chương.

Khi dự lễ lớn, đối với cấp tướng: mặc lễ phục mùa hè màu xám nhạt, mùa đông màu cỏ úa thẫm, áo ngoài cổ bẻ, cúc áo màu vàng hình quốc huy, hai túi dưới chìm, cổ áo có viền theo màu của từng quân chủng và bộ đội biên phòng, trên ve áo có cành tùng và một ngôi sao vàng. Áo sơ mi trắng, cổ đứng dài tay, cra-vát đen. Đeo quân hàm vai. Đội mũ kê-pi viền đỏ, có cành tùng kép màu vàng bao quanh chân hiệu, dây màu vàng. Quần như quân phục thường. Giày da đen.

Cấp tá, lễ phục, màu và hình thức như của cấp tướng. Chỉ khác: mũ kê-pi không có cành tùng bao quanh quân hiệu. Ve áo chỉ có cánh tùng không có ngôi sao vàng. Cúc áo hình sao có hai bông lúa.

Cấp úy, mặc quân phục đông K82 đồng bộ.

Hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên chưa phải là hạ sĩ quan hoặc chuẩn úy: mặc quân phục K82 chiến sĩ, mang quân hàm vai, đeo phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm (thống nhất theo từng khối), đi giày.

Quân nhân dự lễ đeo huân chương, huy chương, và huy hiệu đã được tặng thưởng.

Khi dự lễ nhỏ hoặc hội họp long trọng trong và ngoài nước: Sĩ quan và chuẩn úy kể cả quân nhân chuyên nghiệp, hè thu: mặc quân phục hè thu K82, áo chít gấu ngắn tay cổ bẻ (không có cra-vát) mang quân hàm vai, đeo phù hiệu ở ve cổ áo. Trường hợp mặc áo chít gấu dài tay, cổ đứng, không thắt cra-vát, mở cúc cổ, mang quân hàm và phù hiệu như khi mặc áo cổ bẻ, có thể xắn tay áo trên khuỷu tay, gấp nếp ngay ngắn.

Khi đi công tác, học tập ở nước ngoài lúc nóng bức có thể mặc áo chít gấu dài tay, cổ đứng, đeo cra-vát, mang quân hàm vai. Khi thắt cra-vát thì không đeo phù hiệu.

Hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên chưa phải là sĩ quan hoặc chuẩn úy: mặc quân phục K82 chiến sĩ đeo quân hàm vai, đeo phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn. Đội mũ cứng hoặc mũ mềm (thống nhất theo từng khối), đi giày.

Quân nhân dự lễ nhỏ hoặc hội họp long trọng, đeo cuống huân chương, huy chương và huy hiệu được tặng thưởng.

Sĩ quan cấp tướng và cấp tá, lúc rét có thể mặc áo khoác K82, đeo quân hàm vai.

Mùa hè, có thể mặc áo chít gấu cổ bẻ, mang quân hàm vai, đeo phù hiệu có hình quân chủng, binh chủng hoặc ngành chuyên môn.

Năm 1982, cùng với trang phục K82, đã qui định về quân hiệu, phù hiệu, cấp hiệu thống nhất như sau:

· Quân hiệu của Quân đội Nhân dân Việt Nam hình tròn, nền đỏ ở giữa là ngôi sao vàng (biểu tượng lá cờ Tổ quốc). Phía dưới có hình nửa bánh xe, và hai bông lúa vươn lên bao quanh ngôi sao, tượng trưng cho công nông. Vành ngoài màu vàng.

· Quân hiệu nhỏ gắn trên mũ mềm, mũ bông, mũ nồi của văn công.

· Quân hiệu lớn gắn trên mũ cứng, mũ kê-pi, mũ có dải của hạ sĩ quan, binh sĩ Hải quân.

· Cấp hiệu của sĩ quan và chuẩn úy (mang trên vai áo) bao gồm cả bộ đội biên phòng và quân nhân chuyên nghiệp thống nhất nền màu vàng, có viền một ly theo màu phù hiệu của từng quân chủng, bộ đội biên phòng và quân nhân chuyên nghiệp.

· Trên cấp hiệu của cấp tướng có sao, và cúc tròn nổi hình quốc huy màu vàng. Của các cấp khác có sao, vạch và cúc tròn nổi hình ngôi sao giữa hai bông lúa màu trắng.

· Cấp hiệu của đại tá có ba sao, hai gạch. Cấp hiểu của trung tá có hai sao, hai vạch, thiếu tá một sao, hai vạch.

· Cấp hiệu của đại úy có bốn sao, một vạch, thượng úy ba sao một vạch, trung úy hai sao một vạch, thiếu úy một sao, một vạch, chuẩn úy một vạch.

· Cấp hiệu của hạ sĩ quan, binh sĩ, nền màu xám nhạt có viền một ly theo màu của từng quân chủng và bộ đội biên phòng. Trên nền cấp hiệu có cúc màu trắng, có vạch bằng vải màu đỏ để phân biệt cấp bậc.

· Cấp hiệu của binh nhất: hai chữ V, của binh nhì: một chữ V. Riêng nền cấp hiệu của hạ sĩ quan, binh sĩ Không quân trong bộ đội danh dự, màu xanh da trời, vạch cấp hiệu màu vàng.

· Cấp hiệu của hạ sĩ quan, binh sĩ Hải quân, hình vuông, nền màu xanh tím than.

· Cấp hiệu của binh nhất, hai vạch vàng ở hai đầu cấp hiệu, binh nhì, một vạch vàng ở một đầu cấp hiệu, tất cả đều có gắn hình phù hiệu của quân chủng Hải quân, hoặc ngành nghề chuyên môn ở giữa nền phù hiệu (kể cả của hạ sĩ quan).

· Cấp hiệu của học viên đào tạo sĩ quan, nền theo màu của từng quân chủng và bộ đội biên phòng, có viền 6 ly màu vàng và cúc màu trắng.

· Cấp hiệu của học viên đào tạo hạ sĩ quan và nhân viên kỹ thuật trung cấp, nền theo màu cấp hiệu của học viên sĩ quan nhưng chỉ viền một ly theo màu quân chủng, bộ đội biên phòng (không viền vàng).

· Cấp hiệu của quân nhạc màu đỏ, của văn công màu vàng (không có vạch ngang) cúc màu trắng, trên nền cấp hiệu có hình phù hiệu ngành chuyên môn màu trắng trên nền nổi hình tròn màu đỏ.

· Phù hiệu (mang trên ve áo) bao gồm nền và hình phù hiệu.

· Nền phù hiệu có màu sắc khác nhau để phân biệt các quân chủng, bộ đội biên phòng và quân nhân chuyên nghiệp:

· Lục quân: màu đỏ tươi.

· Không quân và Phòng không: màu xanh da trời.

· Hải quân: màu tím than.

· Bộ đội biên phòng: màu xanh lá cây.

· Quân nhân chuyên nghiệp: màu ghi sáng.

Hình phù hiệu đặt trên nền phù hiệu, có hình dáng khác nhau để phân biệt quân chủng, binh chủng và ngành chuyên môn.

Toàn quân có 25 loại hình phù hiệu sau đây:

· Binh chủng hợp thành bộ binh: hình thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo.

· Bộ binh cơ giới: hình xe bọc thép trên thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo.

· Đặc công: hình dao găm đặt trên khối bộc phá dưới có mũi tên vòng.

· Xe tăng, xe bọc thép: hình xe tăng.

· Pháo binh: hình hai khẩu pháo đặt chéo.

· Hóa học: hình tia phóng xạ trên hình nhân benzen.

· Công binh: hình cuốc, xẻng trên nửa bánh xe.

· Thông tin: hình sóng lượn.

· Bộ đội biên phòng: hình móng ngựa trên thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo.

· Quân chủng không quân: hình sao trên hai cánh chim.

· Bộ đội nhảy dù: hình cánh máy bay trên dù đang mở.

· Quân chủng phòng không: hình hai khẩu pháo đặt chéo.

· Tên lửa: hình tên lửa trên nền mây.

· Cao xạ: hình khẩu pháo cao xạ.

· Ra-đa: hình cánh ra-đa trên bệ.

· Quân chủng Hải quân: hình mỏ neo.

· Hải quân đánh bộ: hình mỏ neo trên thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo.

· Ngành Hậu cần - Tài vụ: hình thanh kiếm và khẩu súng đặt chéo, dưới có bông lúa.

· Quân y, thú y: hình chữ thập đỏ trên hình tròn.

· Ngành kỹ thuật: hình com-pa đặt trên chiếc búa.

· Lái xe: hình tay lái trên díp xe.

· Ngành Quân pháp: gồm cơ quan điều tra hình sự, tòa án quân sự. Viện kiểm sát quân sự, cơ quan pháp chế, và các lực lượng kiểm soát quân sự: hình mộc trên hai thanh kiếm đặt chéo.

· Quân nhạc: hình chiếc kèn và sáo đặt chéo.

· Thể công: hình cung tên.

0