Trần Tử Bình
1907 - 11 tháng 2, 1967 Tướng (1959) Biệt danh Quốc tịch Việt Nam Nơi sinh Xã Tiêu Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam Nơi mất Bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô, Hà Nội ...
Biệt danh
Quốc tịch Việt Nam
Nơi sinh Xã Tiêu Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
Nơi mất Bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô, Hà Nội
Thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam
Cấp bậc Thiếu tướng
Chỉ huy Việt Minh
Quân đội nhân dân Việt Nam
Tham chiến Tổng khởi nghĩa Hà Nội
Chiến dịch Việt Bắc
Khen thưởng Huân chương Quân công hạng Ba
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
Huân chương Độc lập hạng Nhất (1967)
Huân chương Hồ Chí Minh (2001)
Huân chương Sao Vàng (2008)
(1907-1967) là một trong những vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ông là người lãnh đạo phong trào công nhân cao su Phú Riềng 1930 , trực tiếp tham gia chỉ huy cuộc khởi nghĩa Hà Nội tháng 8 năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám ông đã được bổ nhiệm vào nhiều chức vụ của quân đội và Nhà nước như Phó giám đốc chính ủy Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (1946), Phó Bí thư Quân Ủy Trung Ương (1947), Chính ủy trường Lục quân tại Trung Quốc (1950-1956), Tổng thanh tra Quân đội kiêm Phó tổng thanh tra Chính phủ (1956-1958), Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1959-1967).
tên thật là Phạm Văn Phu, sinh năm 1907, trong một gia đình nông dân nghèo theo đạo Thiên chúa, tại xã Tiêu Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Phong trào Phú Riềng Đỏ 1930
Tướng và phu nhân - bà Nguyễn Thị Hưng (1948)
Vì tham gia phong trào yêu nước, vận động giáo sinh ở Chủng viện Hoàng Nguyên (giáo phận Hà Đông) để tang cụ Phan Chu Trinh nên cuối năm 1926 ông bị đuổi học. Năm 1927, được Tống Văn Trân giác ngộ, ông đã kí hợp đồng vào Nam Bộ làm phu đồn điền cao su Phú Riềng.
Tại Phú Riềng, ông được nhà cách mạng Ngô Gia Tự giác ngộ, kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Tháng 10 năm 1929, là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương tại chi bộ Phú Riềng.
Cuối năm 1929, thay Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư chi bộ. Đầu năm 1930, chi bộ lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi quyền sống của 5.000 công nhân Phú Riềng, làm nên phong trào "Phú Riềng Đỏ" lịch sử. Sau đó, ông bị bắt, bị kết án 10 năm tù, bị đày ra Côn Đảo.
Thời kì tù Côn Đảo 1931-1936
Thời kỳ bị Pháp giam cầm tại Côn Đảo ông vẫn tiếp tục học tập lý luận cách mạng, chủ nghĩa Marx-Lenin và đấu tranh đòi độc lập cho Việt Nam từ trong tù. Cũng trong quãng thời gian này ông đã kết thân với các nhà cách mạng cộng sản khác như: Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Trần Xuân Độ, Nguyễn Văn Phát, v.v. đây là lứa cán bộ cốt cán đầu tiên của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm 1936, do ảnh hưởng của Mặt trận Bình Dân Pháp, chính quyền thực dân phải thả ông về đất liền và quản thúc ông ở quê nhà.
Thời kì hoạt động bí mật 1936-1945
Sau khi được trả tự do ông quay trở về Bình Lục và làm thầy ký ở phố huyện Bình Lục, nhưng vẫn tiếp tục bí mật hoạt động cách mạng. Thời kỳ này ông đã lần lựơt giữ các chức vụ khác nhau trong Đảng bộ tỉnh Hà Nam như bí thư chi bộ, bí thư Huyện ủy Bình Lục và bí thư Tỉnh ủy Hà Nam.
Năm 1940, ông được bầu vào Xứ uỷ Bắc Kỳ và trực tiếp phụ trách Liên tỉnh C (Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) vào 1940, 1943; năm 1941 - Liên tỉnh D (Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang).
Ngày 24 tháng 12 năm 1943, bị bắt ở Thái Bình. Đầu 1944, sau khi vượt ngục ở nhà tù Hà Nam bất thành ông bị chính quyền Pháp chuyển về nhà tù Hoả Lò (Hà Nội), nơi được coi là nhà tù tuyệt đối an toàn của chế độ thực dân Pháp. Tại Hỏa Lò, ông được bầu làm Trưởng ban sinh hoạt, tổ chức hoạt động công khai của tù chính trị. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, lợi dụng tình hình phát-xít Nhật hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương, việc quản lý nhà tù Hỏa Lò bị lơi lỏng, cùng một số tù chính trị cộng sản khác đã tổ chức cuộc vượt ngục nổi tiếng trong lịch sử theo đường cống ngầm giải thoát cho gần 100 tù chính trị.
Thiếu tướng tại Việt Bắc (1949)
Sau khi thoát khỏi Hỏa Lò, ông trở về xây dựng Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, với tư cách là Ủy viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, đã trực tiếp tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Hà Nội và một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
Thời kì phục vụ quân đội 1945-1959
Tháng 9 năm 1945, ông được giao nhiệm vụ Phó giám đốc, Chính trị uỷ viên Trường Quân chính Việt Nam (sau đổi tên là Trường Cán bộ Việt Nam). Tháng 5 năm 1946, ông nhận nhiệm vụ Phó giám đốc, Chính uỷ Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.
Năm 1947, ông được đề bạt làm Phó bí thư Quân uỷ Trung ương, Trưởng phòng Kiểm tra cán bộ - Chính trị cục. Cuối 1947, ông cùng Lê Thiết Hùng chỉ huy mặt trận Sông Lô thắng lợi.
Tháng 1 năm 1948, được phong Thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên (cùng đợt với các ông Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Bình). Cùng thời gian đó đó ông được bổ nhiệm làm Phó tổng thanh tra Quân đội.Ông làm nhiệm vụ công tố viên trong việc Tòa án quân sự tối cao xét xử vụ án Trần Dụ Châu tham nhũng mùa hè năm 1950.
1950-1956, ông nhận nhiệm vụ Chính uỷ Trường Lục quân Việt Nam tại Trung Quốc.
Tháng 2 năm 1951, ông được cử làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II tại Việt Bắc.
Thời gian 1956-1958, ông nhận nhiệm vụ Tổng thanh tra Quân đội, Phó tổng thanh tra Chính phủ, tham gia củng cố và trong sạch hoá chính quyền thời hậu chiến.
Năm 1960, ông được bầu làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng III, và được bầu vào Ban chấp hành Trung ương. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khoá II và khoá III.
Thời kì công tác ngoại giao 1959-1967
Năm 1959, ông được chuyển sang công tác tại Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được bổ nhiệm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, kiêm đại sứ Mông Cổ thay cho ông Nguyễn Khang. Trong 8 năm công tác tại Bắc Kinh, ông được bầu làm Trưởng Ngoại giao Đoàn Bắc Kinh. Ở giai đoạn này, mâu thuẫn trong quan hệ giữa hai nước đồng minh Trung Quốc và Liên Xô diễn ra rất căng thẳng, thậm chí đã có lúc Trung Quốc gây sức ép để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngả theo Trung Quốc. Tuy nhiên, đây là hai đồng minh lớn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nguồn viện trợ của cả hai bên là vô cùng cần thiết cho cuộc chiến nhằm thống nhất đất nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, việc ngả về một bên sẽ làm mất lòng bên kia và gây ra tác hại to lớn về nguồn viện trợ, phương diện chính trị cũng như sức mạnh quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Được nhiều đồng nghiệp và cấp trên đánh giá cao về sự khôn ngoan, khéo léo, mềm dẻo, đại sứ đã góp phần giải quyết mâu thuẫn Trung-Việt trong "vấn đề Liên Xô" và vận động được Trung Quốc tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, không để quan hệ Việt - Xô ảnh hưởng đến quan hệ Việt - Trung.
Ông qua đời ngày 11 tháng 2 năm 1967 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô, Hà Nội. Lễ tang của ông được tổ chức theo nghi thức dành cho sĩ quan cấp tướng.
Do công lao đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, ông đã được Nhà nước tặng thưởng:
Huân chương Quân công hạng Ba
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
và được truy tặng:
Huân chương Độc lập hạng Nhất (1967)
Huân chương Hồ Chí Minh (2001)
Huân chương Sao Vàng (2008)
Năm 2008 tên của ông được UBND Thành phố Hà nội đặt cho một con đường ở quận Cầu Giấy đoạn từ số nhà 387 đường Hoàng Quốc Việt đến khu nhà C6 Tập thể Nghĩa Tân (hiện là Ngõ 387 đường Hoàng Quốc Việt), quận Cầu Giấy. Dài: 500 m.
Trong cuộc đời họat động cách mạng và chính trị của mình, luôn nhận được sự động viên mạnh mẽ và nhiệt thành từ Nguyễn Thị Hưng - người vợ, người đồng chí của ông. Nguyễn Thị Hưng cũng đã tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng tại Hưng Yên, và là người trực tiếp lãnh đạo cướp kho thóc Đồng Long, đây là một sự kiện lịch sử quan trọng (đã từng được đưa lên phim truyện). Bà cũng có đóng góp lớn vào công cuộc phát triển phong trào phụ nữ tại nhiều tỉnh phiá bắc.
Sau năm 1957 bà đã đảm đương nhiều cương vị quan trọng của Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Công thương), một trong những bộ lớn thời bao cấp, trong đó có chức vụ Chánh Thanh tra của bộ.
.