25/05/2018, 14:46

Trần Nghệ Tông

(1321 – 1394) là vị vua thứ 8 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Phủ, sinh tại kinh đô Thăng Long, (Hà Nội), Việt Nam. sinh năm 1321, là con thứ ba của Trần Minh Tông, em vua Trần Hiến Tông, anh vua Trần Dụ Tông. Mẹ ...

(1321 – 1394) là vị vua thứ 8 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Phủ, sinh tại kinh đô Thăng Long, (Hà Nội), Việt Nam.

sinh năm 1321, là con thứ ba của Trần Minh Tông, em vua Trần Hiến Tông, anh vua Trần Dụ Tông. Mẹ ông là Minh Từ hoàng thái phi Lê thị.

Năm 1369, Trần Dụ Tông mất, truyền ngôi cho Dương Nhật Lễ. Theo sử sách, Nhật Lễ vốn không phải là con đẻ của Dụ Tông mà mẹ Lễ là đào hát, vợ của kép hát Dương Khương, đã mang thai Lễ trước khi làm vợ vua Dụ Tông.

Nhật Lễ làm vua nhưng bỏ bễ công việc, ham chơi, rượu chè, lại giết bà nội là mẹ Dụ Tông vì bà hối hận việc lập Nhật Lễ. Lễ còn định đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình.

Đêm ngày 20 tháng 9 năm 1370, cha con thái tể Nguyên Trác, Nguyên Tiết và hai người con của công chúa Thiên Ninh đem người tôn thất vào thành định giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và đều bị hại.

Trần Phủ vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Trần Kính giúp ông đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội.

Khi ấy, Nhật Lễ chuyên dùng thiếu úy Trần Ngô Lang mà không biết Ngô Lang đồng mưu với Trần Phủ. Mỗi khi sai quân tướng đi đánh bắt, Ngô Lang đều bí mật bảo họ theo Trần Phủ đừng về nữa. Rất nhiều lần sai các quân Nam, Bắc đi đánh, đều không một ai trở về. Do đó quân của Trần Phủ, Trần Kính mạnh thêm.

Tháng 11, Trần Phủ cùng Trần Kính và Thiên Ninh công chúa dẫn quân về kinh lật đổ Nhật Lễ, giáng làm Hôn Đức Công rồi giết chết, lại giết nốt con của Lễ là Liễu ( Theo sách Theo dòng lịch sử Việt Nam tập 14 ). Trần Phủ lên ngôi, tức là .

Cất nhắc gian thần

Sau khi lên ngôi, thấy chính sự thời Dụ Tông suy sụp, Nghệ Tông muốn khôi phục nề nếp công việc đều theo lệ cũ đời Minh Tông.

Năm 1371, Nghệ Tông lấy người họ ngoại là Lê Quý Ly làm khu mật viện đại sứ. Quý Ly vốn có hai bà cô đều là cung nhân của vua Trần Minh Tông. Bà Minh Từ sinh ra Nghệ Tông, bà Đôn Từ sinh ra Duệ Tông, vì vậy Nghệ Tông từ khi mới lên ngôi rất tín nhiệm Quý Ly. Sau đó Nghệ Tông lại đem em gái mới góa chồng là công chúa Huy Ninh gả cho Quý Ly.

Năm 1372, Nghệ Tông còn cất nhắc Đỗ Tử Bình làm Hành khiển, tham mưu quân sự. Hai người này về sau đều làm hại cơ nghiệp nhà Trần.

Noi gương đời trước của nhà Trần thường giữ chế độ vua và thái thượng hoàng cùng trị nước, tháng 11 năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho Trần Kính lên làm thượng hoàng. Trần Kính lên ngôi, tức là Trần Duệ Tông.

Họa Chiêm Thành

Từ thời Nghệ Tông làm vua, Chiêm Thành đã mang quân cướp phá theo lời cầu cứu của mẹ Dương Nhật Lễ. Nghệ Tông không chống nổi, phải bỏ chạy về Đông Ngàn.

Sau khi nhường ngôi cho Duệ Tông, ông phó thác việc đánh Chiêm cho vua em. Năm 1376, Duệ Tông hăng hái đi đánh Chiêm, nhưng vì chủ quan, bị mắc mưu vua Chiêm là Chế Bồng Nga nên bị tử trận ở thành Đồ Bàn. Một hoàng thân là Ngự Câu vương Trần Húc đầu hàng Chiêm.

Nghệ Tông lập con của Duệ Tông là Trần Hiện lên ngôi, tức là Trần Phế Đế. Phế Đế ít tuổi nên mọi việc đều do thượng hoàng Nghệ Tông quyết định.

Ngày 5 tháng 5 năm 1378, người Chiêm đưa Trần Húc đã đầu hàng đến cướp phủ Nghệ An. Tháng 6, quân Chiêm đánh vào sông Đại Hoàng. Hành khiển Đỗ Tử Bình được sai đi chống giữ, bị thua trận. quân Chiêm liền đánh vào kinh sư, bắt người cướp của rồi rút về.

Kho tàng bị quân Chiêm cướp sạch. Nghệ Tông theo kế của Đỗ Tử Bình, bắt chước phép đánh thuế dung của nhà Đường, thuế má lại nặng thêm. Hồi đầu đời nhà Trần, dẫu có thuế đinh nhưng chỉ người có ruộng mới phải đóng. Đến đây, không cứ có ruộng hay không, đều phải đóng cả, chỉ binh lính mới được miễn.

Tháng 2 năm 1380, người Chiêm xúi giục người Tân Bình, Thuận Hóa ra cướp Nghệ An, Diễn Châu, cướp của bắt người. Tháng 3, Chiêm Thành lại cướp Thanh Hóa. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Lê Quý Ly chỉ huy quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi chống giữ. Tới tháng 5, quân Chiêm không đánh được phải rút lui.

Tháng 6 năm 1383, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga dẫn quân đánh Đại Việt. Kinh sư kinh động. Thượng hoàng sai Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ. Mật Ôn bị giặc bắt sống. Thượng hoàng Nghệ Tông chạy qua sông Đông Ngàn để lánh giặc. Khi ấy có người học trò là Nguyễn Mộng Hoa để cả áo mũ lội xuống nước kéo thuyền ngự lại, xin Nghệ Tông ở lại đánh giặc, nhưng ông không nghe. Quân Chiêm lại cướp phá một trận nữa.

Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hoá. Nghệ Tông lại sai Quý Ly đi chống cự, bị quân Chiêm đánh thua to. Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về. Ngoài mặt trận nguy cấp, Nghệ Tông sai Trần Khát Chân ra cứu.

Năm 1390, Trần Khát Chân nhờ hàng tướng Chiêm chỉ cho chỗ thuyền của Chế Bồng Nga, tập trung hỏa pháo mà bắn. Chế Bồng Nga trúng đạn chết. Họa Chiêm Thành xâm lấn mới tạm chấm dứt.

Dung túng quyền thần

Đỗ Tử Bình

Đỗ Tử Bình là gian thần gây ra cái chết của vua em Duệ Tông. Khi trước Chế Bồng Nga đã dâng vàng xin tạ tội nhà Trần, Bình giấu đi làm của riêng, lại tâu bậy rằng vua Chiêm kiêu ngạo khiến Duệ Tông phải thân chinh. Khi Duệ Tông bị hãm ở thành Đồ Bàn, Bình đi hậu quân không đến cứu ứng, Lê Quý Ly cũng bỏ chạy luôn.

Duệ Tông tử trận, Nghệ Tông không hề trách cứ Quý Ly, chỉ sai mang xe tù nhốt Tử Bình mang về, đồ làm lính. Tuy nhiên chỉ 1 năm sau lại phục chức cho Bình làm hành khiển, sai cùng Quý Ly đi chống Chiêm.

Rồi sau đó Bình còn được cất nhắc làm Nhập nội hành khiển tả tham tri chính sự, lĩnh chức Kinh lược sứ Lạng Giang. Năm 1382, Bình chết, lại được truy tặng là Thiếu bảo và được tòng tự ở Văn Miếu.

Hồ Quý Ly

Lê Quý Ly nhiều lần chống Chiêm bại trận vẫn được trọng dụng. Trần Phế Đế (Đế Hiện) thấy quyền bính của Quý Ly ngày một lớn, mưu trừ bỏ Quý Ly. Quý Ly bèn gièm với Nghệ Tông rằng không nên bỏ con mà lập cháu. Vì vậy, năm 1388, Nghệ Tông phế truất và giết Đế Hiện, lập con nhỏ của mình là Ngung lên ngôi, tức là Trần Thuận Tông. Một người con lớn của Nghệ Tông là Trang Định vương Trần Ngạc làm chức Thái úy cũng cùng các tướng dưới quyền mưu trừ Quý Ly nhưng bị lộ và bị Nghệ Tông giết chết.

Năm 1389, Quý Ly đi đánh Chiêm lại bị thua, giao quân cho tỳ tướng là Phạm Khả Vĩnh, Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về. Sau trận đó Nguyễn Đa Phương trở về, công khai chê Quý Ly là bất tài. Quý Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông bèn cách chức Phương. Quý Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương vì sợ Phương đi hàng giặc. Nghệ Tông bèn ép Phương tự vẫn.

Tháng 2 năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương mưu giết Quý Ly, nhưng Thượng hoàng Nghệ Tông cho là Nhật Chương có lòng khác, bèn giết Nhật Chương.

Quyền hành của Quý Ly quá lớn, nhiều người lo lắng cho cơ nghiệp nhà Trần. Tháng 4 năm 1392, Bùi Mộng Hoa dâng thư lên Nghệ Tông, đại ý nói:

Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: "Thâm hiểm thay Thái sư họ Lê". Xem thế, Lê Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu.

Nghệ Tông xem tờ tâu rồi, lại đưa cho Quý Ly xem. Sau này Quý Ly chuyên chính, Mộng Hoa phải ẩn lánh không ra nữa.

Năm 1394, Nghệ Tông tuổi cao sức yếu, biết Quý Ly có ý lấy ngôi nhà Trần, mà ngăn lại thì không kịp, nên sai thợ vẽ tranh những đại thần nêu tấm gương phò vua nhỏ mà không mang lòng dạ cướp ngôi của đời trước, như Chu Công giúp Chu Thành Vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hán Hậu chúa, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông, gọi là tranh "Tứ phụ", ban cho Quý Ly, để giúp vua Thuận Tông cũng nên như thế.

Tới khi Nghệ Tông bệnh nặng, lại theo lối Lưu Bị thử lòng Gia Cát Lượng, nói với Quý Ly rằng:

“Bình chương là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua.”

Quý Ly cũng làm hệt như Gia Cát Lượng, rập đầu khóc lóc từ tạ, chỉ trời vạch đất thề rằng:

Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp Quan gia để truyền đến con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần.

Mộng thấy vua em

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tháng 3 năm 1394, ông chiêm bao thấy vua em Trần Duệ Tông đem quân đến và đọc bài thơ như sau:

“Trung gian duy hữu xích chủy hầu,

Ân cần tiếm thượng bạch kê lâu.

Khẩu vương dĩ định hưng vong sự,

Bất tại tiền đầu tại hậu đầu.”

Dịch là:

“Ở giữa chỉ có loài mỏ đỏ,

Lăm le lấn lên lầu gà trắng.

Khẩu vương đã định việc hưng vong,

Không ở trước mà ở về sau.”

Ông tự mình chiết tự đoán là: "xích chủy" (miệng đỏ) ám chỉ Quý Ly, "bạch kê" (gà trắng) là Nghệ Tông, vì ông tuổi Tân dậu (1321); "khẩu vương" thì chữ khẩu và chữ vương là chữ "quốc"; việc nước còn hay mất sau sẽ thấy. Nghệ Tông tự đoán biết ngày sau mình qua đời nhà Trần sẽ mất nước.

Ngày 15 tháng 12 năm 1394, ông mất, được táng vào Nguyên Lăng ở Yên Sinh, miếu hiệu là Nghệ Tông, tên thụy là Quang Nhiên Anh Triết Hoàng đế. làm vua 3 năm, làm thượng hoàng 27 năm trong 3 vua đời kế tục, thọ 74 tuổi.

Sáu năm sau, Quý Ly giết con Nghệ Tông là Thuận Tông và phế cháu Nghệ Tông là Trần Thiếu Đế, cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ.

Trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngô Sĩ Liên nhận định về như sau:

“ Nghệ Tông tính trời hòa nhã, giữ lòng kính cẩn, lo sợ. Nhưng uy vũ không đủ để đánh lui giặc ngoài, sáng suốt không đủ để phân biệt lời gièm, có một [Trần] Nguyên Đán mà không biết dùng, lại giao việc nước cho người họ ngoại, khiến xã tắc nhà Trần đi đến sụp đổ, thực là "đằng trước có kẻ siểm nịnh mà không thấy, đàng sau có giặc cướp mà không hay”

Trần Trọng Kim phê phán Nghệ Tông trong Việt Nam sử lược:

“ Cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua (Dụ Tông và) Nghệ Tông... Nghệ Tông thì không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình làm hại nhà mình vậy.”

Nghệ Tông vốn tin tưởng và gửi gắm cơ nghiệp vào vua em Duệ Tông mạnh mẽ, vậy mà khi vua em chết, những kẻ có trách nhiệm trực tiếp, trong đó có Quy Ly, lại không hề hấn gì. Đáng ngạc nhiên hơn, chính Quý Ly bất tài chống giặc lại được thay thế vai trò "rường cột" của vua em Duệ Tông trong triều. Nghệ Tông từng thương Duệ Tông đến mức khi em chết bèn lập cháu lên thay; nhưng sau chỉ vì lời xui bẩy của Quý Ly mà giết cả cháu; hẳn khi đó trong lòng Nghệ Tông không còn tưởng nhớ vua em nữa.

Những ông vua vì ham sắc đẹp, yêu vợ bé mà phế bỏ hoặc giết con lớn trong lịch sử không hiếm và hành động đó không có gì khó hiểu. Lê Quý Ly có thể gièm pha để giết tướng Nguyễn Đa Phương vì đố kỵ ganh ghét cũng không có gì là khó hiểu. Nhưng khi Nghệ Tông tin theo lời một đại thần họ ngoại mà giết tông thất, giết cháu ruột rồi giết cả con ruột thì lòng tin đã đến mức u mê.

Nhiều việc làm của Nghệ Tông không khác gì dọn đường cho Quý Ly cướp ngôi con cháu mình. Nghệ Tông, vừa có công khôi phục nhà Trần từ tay Dương Nhật Lễ trên danh nghĩa, lại vừa có tội làm mất nhà Trần trên thực tế. Chỉ 13 năm sau khi ông mất, Việt Nam sau gần 500 năm độc lập lại bị rơi vào tay phương Bắc. Dù nhà Minh từng có bụng xâm lược từ trước (xem bài Trần Duệ Tông) nhưng biến cố mất nhà Trần thúc đẩy lý do cho hành động xâm lược thực hiện sớm hơn. Nghệ Tông chỉ là ông vua có nét điềm đạm, không xa xỉ, còn tài năng đức độ tầm thường, không biết dùng người. Có ý kiến cho rằng lúc nhà Trần suy yếu, nếu Nghệ Tông không quá nghe Lê Quý Ly mà giết Nguyễn Đa Phương, trái lại biết dùng quyền thuật mà cùng lúc trọng dụng cả Đa Phương và Quý Ly khiến hai người kìm chế, dè chừng lẫn nhau, thì cơ nghiệp nhà Trần chưa đến nỗi suy vong.

* Vợ:

o Huệ Ý phu nhân (?-1370), truy phong là Thục Đức hoàng hậu.

* Con:

o Ngự Câu đại vương Trần Húc (?-1381). Lấy công chúa Tuyên Huy. Bị Trần Phế Đế giết.

o Trần Thúc Ngạn

o Trang Định vương Trần Ngạc (?-6/1391), bị giáng làm Mẫn vương và bị Hồ Quý Ly sai Nguyễn Nhân Liệt giết. Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, giáng Ngạc làm Liệt hiệu phán hầu. Con là Trùng Quang Đế nhà Hậu Trần.

o Giản Định vương Trần Ngỗi (?-1409), tức Giản Định Đế của nhà Hậu Trần.

o Chiêu Định vương Trần Ngung (1378-1398), tức vua Trần Thuận Tông.

o Thiên Huy công chúa Thục Mỹ (hay công chúa Thái Dương), tức Quang Loan hoàng hậu của Trần Phế Đế. Tháng 10 năm 1393, do thông dâm với phủ quân ty Trần Nguyên Uyên, tức giận lại gả cho thái bảo Trần Hãng (con Cung Tín vương Thiên Trạch, em Nguyên Uyên).

0