25/05/2018, 14:15

Trần Anh Tông

(1276 – 1320), tên thật là Trần Thuyên, là vị vua thứ tư của nhà Trần (sau vua cha Trần Nhân Tông và trước Trần Minh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 21 năm (1293 – 1314) và làm Thái thượng hoàng 6 năm. Cũng như vua cha Nhân Tông, ông là một vị vua ...

(1276 – 1320), tên thật là Trần Thuyên, là vị vua thứ tư của nhà Trần (sau vua cha Trần Nhân Tông và trước Trần Minh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 21 năm (1293 – 1314) và làm Thái thượng hoàng 6 năm. Cũng như vua cha Nhân Tông, ông là một vị vua anh minh, được sự giúp rập của những nhà nho lớp trẻ như Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn.

Anh Tông Trần Thuyên là con trai của vua Trần Nhân Tông. Năm 1293, sau khi cuộc chiến tranh Đại Việt-Nguyên Mông chấm dứt, vua Nhân Tông rút về làm Thái thượng hoàng, nhường ngôi hoàng đế cho Trần Thuyên.

Khi mới lên nối ngôi, Anh Tông hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có lần bị đồ vô lại ném trúng đầu. Một hôm uống rượu say đến nỗi Thượng hoàng Nhân Tông ở Thiên Trường về kinh đô, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị định truất ngôi Anh Tông.

Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh đô, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa.

Từ xưa đến nay vua Đại Việt vẫn có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi, nhưng Anh Tông không muốn theo tục này. Một hôm Thượng hoàng Nhân Tông bảo Anh Tông rằng: "Dòng dõi nhà mình vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngày xưa, nay nhà vua phải theo tục ấy mới được". Anh Tông tuy vâng mệnh nhưng lừa khi Thượng hoàng bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy, vua Đại Việt mới không vẽ mình nữa.

Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Về văn có Trương Hán Siêu; võ có Phạm Ngũ Lão, Lê Trung Hiển đều là những người tài giỏi. Thời đó vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Thời Anh Tông cai trị tiếp tục giai đoạn thịnh trị của nhà Trần.

Tính vua Anh Tông hay vẽ và làm thơ. Ngày nay, người ta chỉ tìm thấy 12 bài chép của ông trong "Việt âm thi tập". Có bài được ông sáng tác trên đường đi chinh chiến mà cũng có những bài nói về lịch sử, đạo Thiền. Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, ông còn là tác giả của những bài thơ tả cảnh như "Vân tiêu am", "Đông Sơn tự". Ông có làm một tập thơ Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đến lúc sắp mất đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng năm 1320, khi Anh Tông đau nặng, hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi mà bảo rằng:

"Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết".

Sau đó ông qua đời, hưởng thọ 47 tuổi. Ngày 12 tháng 12 năm 1320, ông được an táng Thái lăng ở Yên Sinh.

Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là hoàng hậu Tapasi, người Java (Nam Dương ngày nay). Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.

Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua đồng ý gả Huyền Trân cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành, được phong làm hoàng hậu Paramecvari. Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5 năm 1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chiêm sai sứ sang Đại Việt báo tang. Theo tục nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền, đưa Huyền Trân về Đại Việt bằng đường biển.

* Sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư chê trách chuyện này:

“Ngày xưa Hán Cao Hoàng vì nước Hung Nô nhiều lần làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho thiền vu. Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách, song dụng ý là muốn binh yên, dân nghỉ, thì còn có thể nói được. Nguyên Đế thì vì Hô Hàn sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy nàng Vương Tường mà ban cho, cũng là có cớ. Còn như Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì tín ở đâu?”

Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư dù có khen nhưng vẫn phê phán ông là quá mộ đạo Phật:

“ Vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao?”

—Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

* Cha: Trần Nhân Tông

* Mẹ: Bảo Thánh hoàng hậu Trần thị

* Em gái: Công chúa Huyền Trân

* Vợ:

o Thánh Bà phu nhân, sau phong Thuận Thánh hoàng hậu Trần thị (?-1330, con gái Trần Quốc Tảng), sau Trần Minh Tông phong là Thuận Thánh Bảo Từ hoàng thái hậu.

o Huy Tư hoàng phi, Huy Tư hoàng thái phi (tức là Chiêu Hiến hoàng hậu hay Chiêu Từ hoàng thái hậu) Trần thị (?-1359, con gái Trần Bình Trọng)

o Tĩnh Huệ phi Phạm thị (con gái Phạm Ngũ Lão), không con, xuất gia năm 1309

o Đa La Thanh (con gái sư người Hồ Du Chi Bà Lam)

o Cung tần Trần Thị Thái Bình

o Cung nhân Vương thị

* Con trai:

o Ba người con trai chết sớm, không rõ tên

o Trần Mạnh, con của Chiêu Hiến hoàng hậu Trần thị, sau là vua Trần Minh Tông

* Con gái:

o Công chúa Thiên Chân, con gái Thuận Thánh hoàng hậu, lấy Huệ Chính vương

o Công chúa Ý Trinh

o Công chúa Huy Chân, con gái của cung tần Trần Thị Thái Bình, lấy Uy Giản hầu

o Công chúa Huệ Chân, con Vương thị

o Công chúa Thánh Chân.

* Hưng Long

0