21/02/2018, 09:11

Tóm tắt truyện Thánh Gióng

– Bài số 1 Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có cặp vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng là phúc đức nhưng không có con. Một hôm, bà vợ đang làm đồng thấy một vết chân to liền ướm chân vào. về nhà bà mang thai và sau mười ...

– Bài số 1

Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có cặp vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng là phúc đức nhưng không có con. Một hôm, bà vợ đang làm đồng thấy một vết chân to liền ướm chân vào. về nhà bà mang thai và sau mười hai tháng thì sinh ra một bé trai khôi ngô tuấn tú. Điều kì lạ là mãi lên ba tuổi, cậu bé vẫn chưa biết đi, chảng biết nói, biết cười.

Khi giặc Ân xâm phạm bờ cõi, vua Hùng cho người đi tìm nhân tài cứu nước. Cậu bé cất tiếng đầu tiên và cũng là lời xin được đi đánh giặc. Cậu bé yêu cầu sứ giả về tâu vua sắm cho cậu ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Từ đó cậu lớn nhanh như thổi. Sau khi ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà do bà con hàng xóm gom góp, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra trận diệt giặc. Trong lúc đánh giặc, roi sắt bị gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí đánh giặc.

Dẹp xong giặc Ân, tráng sĩ một mình một ngựa lên đỉnh núi rồi bay lên trời. Để’ tưởng nhớ công ơn tráng sĩ, nhân dân lập đền thờ, hàng năm tổ chức hội làng để tưởng nhớ. Những dấu tích của trận đánh năm xưa vẫn còn lưu lại trên mặt đất, trên những bụi tre nơi cậu bé diệt giặc.

– Bài số 2

Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng già chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào ước chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoắt thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một đứa bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu nằm đấy. Vợ chồng ông lão đâm lo?

Bấy giờ giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua túng thế, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cựa mình và cất tiếng nói: “ Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phải đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp thuận và sai người ngày đêm làm đủ những vật mà chú bé yêu cầu.

Từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo vừa mới mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cực nhọc mà không đủ nuôi con. Bà con xóm làng thấy thế, bèn xúm vào kẻ ít nhiều nuôi chú bé.

Giặc Ân đã đến chân núi Trâu, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc. Ai nấy đều lo lắng và sợ sệt. Vừa lúc, sứ giả mang đủ các thứ mà chú bé đã dặn. Chú bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ thật oai phong, thật lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt cầm roi sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thằng vào quân giặc hết lớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt bị gãy, tràng sĩ liền nhổ nhũng bụi tre ven đường quất vào quân giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm dạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời.

Để tưởng nhớ người tráng sĩ có công đánh tan giặc Ân xâm lược. Nhà vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.

Hiện nay vẫn còn dấu tích đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư là làng mở hội tưng bừng để tưởng nhớ người tráng sĩ Thánh Gióng. Và để ngắm nhìn những dấu tích mà tráng sĩ và ngựa sắt đã đánh tan giặc Ân, đó là tre đằng ngà, nhưng ao hồ liên tiếp…

– Bài số 3

Ngày xưa, ở làng Gióng có hai vợ chồng nhà nọ, nhà nghèo, họ đã sống với nhau nhiều năm mà chưa có con, hai ông bà ngày đêm ao ước có một đứa con để bế bồng. Có lẽ niềm mong mỏi của đôi vợ chồng nghèo đã động đến lòng trắc ẩn của nhà trời. Một hôm, người vợ ra đồng làm việc, bà thấy một vết chân to, khác lạ với chân bình thường, tò mò bà bèn đặt chân mình lên ướm thử. Không lâu sau đó bà thấy mình có dấu hiệu thụ thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai. Hai vợ chồng rất hạnh phúc và đặt tên con là Gióng. Gióng lớn rất nhanh, nhưng lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười. Đúng thời điểm ấy, giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta. Trước tình hình hung hãn của bọn giặc, nhà vua lo sợ bèn sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước. Một hôm, chú bé đang nằm trong nhà, nghe thấy tiếng rao của sứ giả chú bé bỗng nhiên bật nói: “ Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con”. Sứ giả vào chú bé bảo: “ Ông về bẩm báo với nhà vua rằng đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái áo giáp sắt và một cây roi sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.”

Được một cậu bé còn nhỏ tuổi mà nói thế, sứ giả vừa mừng rỡ, vừa kinh ngạc, chạy vội về bẩm báo với nhà vua. Nhà vua mừng rỡ sai người ngày đêm làm gấp những thứ mà chú bé yêu cầu. Từ ngày ấy, chú bé lớn nhanh như thổi cơm ăn mấy cũng không no. Ba mẹ Gióng không đủ gạo để nuôi con, phải nhờ sự góp sức của dân làng. Đến ngày giặc kéo đến, sứ giả đem tới những thứ Gióng yêu cầu. Gióng đứng dậy vươn vai một cái biến thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt lao đến chỗ có giặc. Gióng đánh đến đâu giặc tan đến đó, một số giặc bỏ chạy thoát thân, còn lại chết la liệt. Sau khi đã giết được một số lượng lớn tên giặc, cũng là lúc roi sắt gãy. Gióng đã nhanh trí nhổ cụm tre bên đường làm vũ khí tiếp tục giết giặc để giết giặc. Sau khi đã giết được sạch bóng giặc Ân, Gióng phi thẳng ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn, cởi áo giáp sắt bỏ lại, phi ngựa về Trời.

Để tưởng nhớ công lao của Thánh Gióng với nhân dân Vua phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ở ngay quê nhà. Vì ngày xưa ngựa sắt đã phun lửa thiêu cháy cả một làng. Nên từ đó còn có tên là làng Cháy hay làng Phù Đổng. Câu truyện ca ngợi vị anh hùng làng Gióng chống giặc ngoại xâm.

– Bài số 4

Ngày xưa, ở làng Gióng có hai vợ chồng nọ, nhà nghèo, hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm, bà mẹ ra đồng như mọi hôm, bà thấy một vết chân to bèn đặt chân mình lên ướm thử, không ngờ về nhà bà thụ thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai, hai ông bà đặt tên là Gióng, Gióng lên ba vẫn không biết nói, không biết cười. Lúc bấy giờ có giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta, thế giặc mạnh nhà vua lo sợ bèn sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước. Một hôm, chú bé đang nằm trong nhà, nghe thấy tiếng rao của sứ giả chú bé bỗng nhiên bật nói: “ Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con”. Sứ giả vào chú bé bảo  “ Ông về bẩm báo với nhà vua rằng đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái áo giáp sắt và một cây roi sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.” Sứ giả vừa mừng rỡ, vừa kinh ngạc, chạy vội về bẩm báo với nhà vua. Nhà vua mừng rỡ sai người ngày đêm làm gấp những thứ mà chú bé yêu cầu. Từ ngày ấy, chú bé lớn nhanh như thổi cơm ăn mấy cũng không no. Ba mẹ Gióng nghèo không đủ tiền mua gạo nuôi Gióng, đành nhờ bà con giúp đỡ, mọi người ai cũng muốn Gióng ăn nhanh chống lớn để đi đánh giặc nên rất sẵn lòng góp gạo nuôi Gióng. Giặc ngoại xâm đã kéo đến, vừa lúc đó sứ giả đem tới những thứ Gióng yêu cầu. Bỗng Gióng vươn vai một cái biến thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc. Gióng đánh đến đâu giặc tan đến đó, bỗng roi sắt gãy, Gióng nhổ cụm tre bên đường để giết giặc. Sau khi đã dẹp tan giặc Ân  Gióng phi ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn  cởi áo giáp sắt bỏ lại, phi ngựa về Trời. Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ở ngay quê nhà.

Vì ngày xưa ngựa sắt đã phun lửa thiêu cháy cả một làng. Nên từ đó còn có tên là làng Cháy hay làng Phù Đổng. Câu chuyện ca ngợi vị anh hùng làng Gióng chống giặc ngoại xâm.

Vũ Hường tổng hợp

0